Nhìn Đất Bón Phân Cho Lúa

Bón phân cho lúa là một kỹ thuật rất quan trọng giúp hạ giá thành sản xuất, tăng năng suất và phẩm chất lúa cũng như hạn chế sự đổ ngã, sâu bệnh cho lúa. Vì vậy, nông dân cần biết kỹ thuật bón phân cho từng mùa vụ cũng như từng vùng sinh thái khác nhau.
Thường vụ lúa hè thu và thu đông ở ĐBSCL thường có khuyến cáo mức bón phân tương đương nhau. Mức khuyến cáo chung trung bình cho 2 vụ này là 80+40+30 (N-P2O5-K2O; kg phân nguyên chất/ha). Quy ra lượng phân thương phẩm là 174kg urea + 243kg super lân + 50kg KCl. Tuy nhiên, do đặc điểm ở ĐBSCL có 3 nhóm đất chính gồm: Đất nhiễm phèn có diện tích 1,6 triệu ha (chiếm 41%); đất phù sa 1,18 triệu ha (chiếm 30%); và đất mặn 0,74 triệu ha (chiếm 19%).
Vì vậy, cần có sự điều chỉnh theo các mức khuyến cáo khác nhau cho từng vùng sinh thái này. Cụ thể như sau: Bón phân cho lúa thu đông trên vùng đất phèn: Vùng này có các tỉnh như Long An, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Tiền Giang. Mức khuyến cáo N-P2O5-K2O (kg/ha) cho 1ha là: Mức cao: 80-80-50, mức trung bình 60-40-25 và mức thấp 40-40-25. Mức trung bình phân nguyên chất này tương đương với phân thương phẩm là 131kg urea + 243kg super lân + 42kg KCl.
Bón phân cho vùng đất phù sa: Vùng này thuộc các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang và TP. Cần Thơ. Công thức phân bón khuyến cáo mức cao là 80-60-50, mức trung bình là 60-30-25 và mức thấp 40-30-25. Với mức trung bình phân nguyên chất này thì tương đương phân thương phẩm là 182kg urea + 42kg super lân + 42kg KCl.
Ở các vùng đất bị nhiễm mặn như Hậu Giang, Trà Vinh, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Bến Tre, Tiền Giang và một phần Long An, thường bị ngập mặn trên 3 tháng trong mùa khô. Mức phân bón khuyến cáo cao là 100-60-50; mức trung bình 80-30-30 và mức thấp 60-30-30. Mức trung bình nguyên chất này tương đương phân thương phẩm là 174kg urea + 182kg super lân + 50kg KCl.
Cách bón và liều lượng phân bón: Áp dụng cho khoảng 3 đợt bón. Đối với lúa có thời gian sinh trưởng dưới 90 ngày: Đợt 1 khoảng 7 - 10 NSS (ngày sau sạ); đợt 2 khoảng 18 - 22 NSS; đợt 3 từ 30 - 35 NSS. Đối với lúa dài ngày hơn từ 95 - 100 ngày thì đợt 1 từ 7 - 10 NSS, đợt 2 từ 22 - 25 NSS, đợt 3 là 40 NSS. Chia đều lượng phân làm 3 lần bón, đợt đầu bón 1/5 lượng phân, hai đợt kia mỗi đợt bón 2/5 lượng phân. Tùy cụ thể vào tình hình thời tiết, sinh trưởng và màu sắc lá lúa có thể bón thêm một lần nuôi hạt vào giai đoạn 55 - 60 NSS.
Có thể bạn quan tâm

Ngày 15/6, Hội Thuỷ sản tỉnh Cà Mau cùng Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh và Phòng Kinh tế, Hội Thuỷ sản TP Cà Mau tiến hành khảo sát tại hộ ông Quách Văn Tứ - bà Nguyễn Thị Ðào, là cặp vợ chồng tàn tật, ở ấp Thành Thưởng, xã An Trạch, huyện Ðông Hải, tỉnh Bạc Liêu, thành công với mô hình nuôi tôm nước tĩnh cho hiệu quả cao.

Những tháng đầu năm 2015, giá cá tra có chuyển biến tích cực, dao động từ 23.000 - 24.000đ/kg, đảm bảo người nuôi có lãi. Diện tích thu hoạch cá tra 6 tháng đầu năm đạt 674 ha, tăng 2,5%, sản lượng đạt 130.342 tấn, tăng 5,2% so cùng kỳ. Tuy nhiên, đến đầu tháng 5 năm 2015, giá cá tra nguyên liệu đột ngột giảm giảm, hiện chỉ còn từ 20.000 - 21.000 đ/kg, làm cho người nuôi cá tra lo lắng.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích nuôi thủy sản của tỉnh An Giang 6 tháng đầu năm 2015 đạt 1.097 héc- ta (tăng 7,2% so cùng kỳ); thu hoạch 163.898 tấn (tăng 5,2% so cùng kỳ).

Hồ thủy điện Hòa Bình (hồ sông Đà) địa phận tỉnh ta có diện tích mặt nước 8.900 ha thuộc 19 xã của 4 huyện: Đà Bắc, Mai Châu, Cao Phong, Tân Lạc và TP Hòa Bình, là tiềm năng, lợi thế lớn để phát triển nghề cá. Tỉnh đã quy hoạch và đang triển khai những giải pháp cụ thể, tạo “cú huých” khai thác tiềm năng, lợi thế đặc thù của vùng hồ phát triển nghề cá theo hướng sản xuất hàng hóa.

Những năm gần đây, người dân xã Duy Ninh (Quảng Ninh - Quảng Bình) đã biết tận dụng mặt nước của sông Kiến Giang chảy qua địa phương để phát triển nghề nuôi cá lồng. Nghề nuôi cá lồng tuy mới mẻ nhưng hứa hẹn sẽ mở ra một hướng làm ăn mới giúp người dân nơi đây tăng thêm nguồn thu nhập, ổn định cuộc sống...