Nhạy bén trong sản xuất

Xuất phát từ thực tế đó, đồng thời được sự vận động của chính quyền địa phương, nông dân cùng nhau liên kết sản xuất lúa. Cụ thể là hợp đồng ngày, giờ, đồng loạt thực hiện các khâu trong sản xuất như: bơm nước, sạ, dặm, bón phân, xịt thuốc… Nhờ đó, 3 năm nay, vụ lúa nào gia đình ông Chí cũng đạt năng suất cao.
Ông Chí chia sẻ: “Sản xuất theo hình thức liên kết, hợp tác với nhau tôi thấy hiệu quả, năng suất lúa nâng lên rõ rệt. Bơm nước, sạ, cái gì cũng thực hiện đồng loạt nên khoẻ hơn, chi phí nhẹ hơn, việc canh tác cũng dễ dàng, không bị tràn bờ, bể bờ…”.
Trước Tết, ông Chí thu hoạch 4,2 ha lúa vụ 2, năng suất trung bình 7 tấn/ha, tương đương so với lúa vụ 2 năm trước. Ngoài phần lúa để lại ăn, số còn lại ông bán, trừ các khoản chi phí còn lợi nhuận khoảng 80 triệu đồng.
Theo ông Trần Văn Sách, Chi hội trưởng Chi hội Nông dân ấp Thăm Trơi B, vài năm gần đây, địa phương vận động nông dân ấp Rạch Nhum và ấp Thăm Trơi A liên kết trong sản xuất. Cụ thể, vào vụ lúa sẽ cùng nhau bơm nước, xuống giống đồng loạt.
Qua nhiều vụ cho thấy, việc canh tác dễ dàng hơn, chi phí sản xuất giảm nhiều hơn so với trước đây, năng suất lúa cũng cao hơn nên bà con rất phấn khởi và đồng tình. Hiện nay, trên địa bàn ấp có khoảng 70% hộ nông dân sản xuất theo phương thức này.
Bên cạnh việc thay đổi phương thức sản xuất thì việc nhạy bén trong khâu lựa chọn giống lúa cũng góp phần nâng cao năng suất, sản lượng lúa. Cách đây vài năm, nông dân đa phần sử dụng giống lúa ở địa phương hoặc lựa chọn loại giống nào có năng suất cao rồi tự gầy giống, cách làm này chỉ sau vài vụ sản xuất, năng suất lúa không đạt, chất lượng kém, thu nhập thấp.
Hiện nay, qua quá trình tìm hiểu về vai trò quan trọng của việc sử dụng giống lúa đạt chất lượng trong sản xuất, hầu hết bà con chủ động tìm mua, sử dụng các loại giống lúa cấp xác nhận, giống nguyên chủng vào sản xuất. Ðồng thời, qua quá trình sản xuất, bà con còn biết lựa chọn những giống lúa phù hợp với điều kiện canh tác ở địa phương.
Vụ 2 năm nay, gia đình ông Chí sử dụng loại giống OM 5451, với 100% diện tích sản xuất. Không chỉ riêng ông mà đa phần bà con ở địa phương ưa chuộng giống lúa OM 5451, vì qua vài vụ sản xuất cho thấy giống lúa OM 5451 có nhiều ưu điểm vượt trội hơn. Ðặc biệt, giống này ít bị nhiễm bệnh, chất lượng lúa tốt hơn, năng suất cao hơn so với OM 6162 từ 5 - 10 giạ/công.
Sản xuất lúa, ngoài yếu tố “cần” là sự siêng năng, chịu khó thì vẫn phải đảm bảo các yếu tố “đủ”, đó chính là nhạy bén, kịp thời nắm bắt phương thức sản xuất mới, phù hợp với điều kiện sản xuất tại địa phương, áp dụng khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, sử dụng những giống lúa đảm bảo chất lượng, cho năng suất cao. Nông dân huyện Trần Văn Thời bước đầu gặt hái được thành công từ sự nhạy bén này.
Có thể bạn quan tâm

Hàng năm vào tháng 9, 10 ở các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đều có lũ từ thượng nguồn sông Mê Kông đổ về. Bên cạnh những lợi ích như: cung cấp phù sa, xổ nước phèn cho đồng ruộng, mang lại nguồn lợi thủy sản…, lũ cũng gây hại nhất định đối với sản xuất nông nghiệp và nuôi thủy sản nước ngọt.

Do thời tiết ở Thái Lan đang ấm dần lên, nên người nuôi tôm ở miền Nam nước này đã bắt đầu thả nuôi lại với hy vọng vụ mùa năm nay sẽ kả quan hơn.

Với nhiều hàng rào kỹ thuật mà các nước nhập khẩu đề ra ngày càng cao, ngành cá tra Việt Nam đang chủ động hướng tới sản xuất bền vững.

Hơn một tuần sau Tết Nguyên đán Giáp Ngọ, đến thôn Phú Sơn 2, xã Hòa Khương (Đà Nẵng), chúng tôi biết được người nông dân nơi đây có nguồn thu nhập cao nhờ vào nuôi cá nước ngọt, từ 100 triệu đồng/500m2 đến 2 tỷ đồng/ha.

Các cơ sở chế biến nội địa phát triển ổn định, sản phẩm chế biến phong phú, đa dạng phục vụ tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu thủy sản trong tháng 1-2014 ước đạt gần 7 triệu USD; một số mặt hàng chủ lực xuất khẩu chính ngạch như: Surimi, tôm đông lạnh...