Nhà nông trồng rừng chuyên nghiệp

Ông Nghĩa vốn là nhà nông, với 2 vợ chồng và 3 người con được xã cấp cho 1.600m2 đất ruộng và đất thổ theo Nghị định 64/CP. Ruộng đất ở đây đa phần là đất tốt nhờ có phù sa sông Trà bồi đắp hàng năm và luôn chủ động nước tưới nhờ gần công trình đầu mối Thạch Nham, nhưng qua nhiều năm làm lúa và trồng các loại cây hoa màu như mía, mì, bắp... kết hợp với chăn nuôi cũng chỉ đủ ăn chứ không giàu lên được. Vì thế ông đã nghĩ đến chuyện khai phá đất trống đồi núi trọc để trồng cây lâm nghiệp.
Được xã khuyến khích và tạo điều kiện cho nhân dân trong xã phát triển nghề rừng, hơn 10 năm trước đây ông đã trồng được 5ha rừng. Lúc đầu, theo phong trào, ông cũng như nhiều người khác trồng bạch đàn Úc, rồi chuyển sang trồng keo hạt nhưng cây keo lâu lớn và sản lượng không cao nên ông Nghĩa đã chuyển toàn bộ 5ha đất đồi của mình sang trồng keo lai bằng giống keo giâm hom
Cũng do thiếu kinh nghiệm nên lúc đầu khi keo được 4-5 năm tuổi ông thu hoạch cùng một lúc để bán cho nhà máy, sau đó trồng keo lại như ban đầu. Bán keo như vậy, tuy một lúc thu được nhiều tiền, nhưng cả gia đình phải chi tiêu trang trải trong nhiều năm trời mới có keo bán lại nên ông không thể tích lũy được nhiều.
Thế là ông đã nghĩ ra cách quy hoạch lại rừng cây của mình để có keo bán hàng năm. Với diện tích 5ha ông đã trồng và chăm sóc theo kiểu gối đầu. Cứ mỗi năm thu hoạch 1ha keo thì trồng mới lại trên diện tích đó. Như vậy, năm nào ông cũng bán được 1ha keo. Ông Nghĩa cho biết, giá keo tại nhà máy thu mua hiện giờ hơn một triệu đồng/tấn. Keo của ông trồng đến năm thứ 4 thường đạt sản lượng từ 160-170 tấn/ha và đến năm thứ 5 đạt 180-200 tấn/ha. Trừ công thu hoạch và vận chuyển, mỗi ha thu được 150 triệu đồng, trừ công chăm sóc và đầu tư còn lãi được 130 triệu/ha. Không những thế, nguồn thu từ trồng keo xen mì vào năm thứ nhất cũng được hơn 15 triệu đồng, bù vào tiền công chăm sóc nên khoảng lãi từ trồng keo còn lớn hơn.
Ông Nghĩa cho biết thêm, nếu so với các cây khác như lúa, mía, mì, bắp thì hiệu quả tương đương, nhưng làm rừng có thuận lợi hơn vì ít bị tính thời vụ thúc ép, ít bị nguy cơ mất mùa do thiên tai (trừ bão lớn và lốc xoáy), lại tận dụng được lao động nông nhàn quanh năm. Cứ khi nào rảnh rỗi thì đi chăm sóc rừng mà hiệu quả thu được chắn chắc là cao hơn, nên ông Nghĩa đã chuyển sang làm nghề trồng rừng “chuyên nghiệp” từ nhiều năm nay.
Ngoài nguồn thu hoạch từ ruộng lúa, hoa màu cũng đủ chi tiêu trong gia đình, nguồn thu nhập từ bán cây keo nguyên liệu được gia đình ông tích lũy hàng năm. Nhờ đó, gia đình ông đã có mức sống ổn định và vươn lên trở thành hộ có thu nhập khá.
Có thể bạn quan tâm

Anh Lưu Thanh Nghĩa, người nuôi tôm tại huyện Bến Tre cho biết, từ giữa tháng 12, thời tiết bắt đầu trở lạnh, nhiệt độ hạ thấp kèm theo mưa khiến sức ăn của 2 ao tôm anh đang nuôi giảm rõ rệt.

Mặc dù nhiều nơi, do giá cả không ổn định, bà con chặt bỏ cây ca cao trồng các loại cây khác nhưng ở Bến Tre nhiều hộ trồng ca cao xen trong vườn dừa vẫn duy trì diện tích và đem lại hiệu quả cao.

Bước lên con thuyền xi măng kéo dây, đưa chúng tôi qua sông Kiến Giang để sang bên trang trại của anh Tống Sỹ Hoàn, thôn Hiếu Thiện, xã Vũ Hội (Vũ Thư - Thái Bình). Nơi đây giống như một ốc đảo xanh, không khí trong lành, cây cối xanh tươi soi bóng xuống những chiếc ao rộng, đàn vịt, ngỗng tung tăng bơi lội, cá quẫy đớp mồi.

Xã Sơn Ninh, Hương Sơn , Hà Tĩnh nằm cạnh con sông Ngàn Phố, người dân quanh năm sống chung với lũ, lụt. Nhưng về với Sơn Ninh vào dịp lễ Giáng Sinh năm nay, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên trước sự “thay da đổi thịt” của mảnh đất này...

Mô hình nuôi rắn mối tại xã xây dựng nông thôn mới trên địa bàn Bình Thuận được Trung tâm Thông tin và Ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) tỉnh triển khai cách đây chưa lâu. Kết quả cho thấy, con nuôi này có thể đem lại nguồn thu nhập ổn định cho lao động nông nhàn, bởi vốn đầu tư không lớn và cũng không tốn nhiều công sức…