Người Nông Dân Dám Nghĩ Dám Làm

Theo lời giới thiệu của chủ tịch UBND xã Hà Lương, chúng tôi đến thăm mô hình phát triển kinh tế của anh Nguyễn Hồng Quang, hội viên hội nông dân chi hội 4 của xã. Được biết trong những năm gần đây, với ý chí quyết tâm làm giàu và dám nghĩ dám làm, anh Quang đã mạnh dạn lập mô hình nuôi con đặc sản và cho thu nhập cao.
Mô hình nuôi nhím và lợn rừng của gia đình anh Nguyễn Hồng Quang ở xã Hà Lương (Hạ Hòa- Phú Thọ) được nhiều người không chỉ trong huyện mà cả các huyện, các tỉnh bạn biết đến và học tập làm theo.
Cách đây 4 năm, gia đình anh đã mạnh dạn vay vốn của ngân hàng chính sách xã hội dành cho người nghèo sau đó bỏ vốn ra xây dựng chuồng trại, mua 6 con nhím và 3 con lợn rừng trị giá hơn 40 triệu đồng về nuôi thử. Một phần nhỏ diện tích đất dành cho ngôi nhà gỗ để gia đình anh sử dụng, diện tích còn lại anh dành để làm vườn chăn thả lợn rừng và chuồng nuôi nhím. Anh kể: Sau khi mua lợn rừng từ Tây Ninh về thì công việc khó khăn nhất là thuần hóa nó để tiện cho mình chăm sóc, cho ăn sau này. Công việc này đòi hỏi sự kiên trì và bền bỉ mới làm được.
Phải mất tới 4 tháng dày công tìm tòi, suy nghĩ và thực hiện việc thuần hóa lợn rừng, anh mới có thể yên tâm ngủ yên. Từ đó trở đi, công việc nuôi lợn trở nên dễ dàng hơn. Lợn rừng ăn thức ăn đơn giản như các loại rau, củ, quả...Còn nuôi nhím thì đơn giản hơn. Nhím cũng ăn tất cả các loại rau, củ quả có trong vườn nhà. Anh Quang cho biết thêm: Một điều đáng chú ý là hai giốn động vật này đòi hỏi người nuôi phải chú ý giữ vệ sinh sạch sẽ, tránh dịch bệnh, đặc biệt là bệnh ỉa chảy.
Sau nhiều năm nuôi giống động vật có giá trị kinh tế cao này, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong chăn nuôi, hiện gia đình anh Nguyễn Hồng Quang đã mở rộng mô hình chăn nuôi với 12 con nhím và hơn 30 con lợn rừng. Tổng giá trị lên tới 300 triệu đồng. Hiện gia đình anh nuôi 3 con lợn nái sinh sản. Mỗi năm hai lứa, mỗi lứa đẻ hàng chục con. Khi lợn con được 15 đến 18 kg là có thể bán giống cho nông dân trên địa bàn các huyện và tỉnh bạn.
Giá bán ra thị trường hiện nay từ 300.000 đồng đến 800.000 đồng/kg. Đối với nhím bán giống khá đắt, giao động từ 25-26 triệu đồng/ cặp. Tổng thu nhập từ bán giống nhím và lợn rừng sau khi trừ chi phí mỗi năm đem lại cho gia đình anh hàng trăm triệu đồng tiền lãi, góp phần đáng kể cải thiện điều kiện sống và giúp anh vươn lên làm giàu chính đáng.
Không chỉ phát triển mô hình tại gia đình, anh Nguyễn Hồng Quang còn tích cực hướng dẫn bà con nông dân trong thôn và xã kinh nghiệm nuôi nhím và lợn rừng đồng thời nhân rộng mô hình này ra nhiều thôn khác. Đến nay, xã Hà Lương đã có một vài hộ gia đình nuôi nhím và lợn đặc sản theo gia đình anh Quang. Số lượng con nhím và lợn rừng của cả xã tăng lên đáng kể.
Có thể bạn quan tâm

Xí nghiệp chăn nuôi bò giống, bò thịt Đà Loan thuộc Công ty TNHH một thành viên bò sữa thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở đầu tiên ở Lâm Đồng đăng ký và được công nhận cơ sở an toàn dịch bệnh đối với bệnh lở mồm long móng. Với tổng số đàn bò của xí nghiệp hiện nay gần 400 con song tất cả đều đảm bảo an toàn, ông Đào Xuân Tấp - Giám đốc Xí nghiệp chăn nuôi bò Đà Loan khẳng định.

Vào khoảng 12 giờ 30 ngày 1-11, nhận được tin báo của người dân tại ấp 3, xã Lộ 25, huyện Thống Nhất (Đồng Nai), có hai đối tượng điều khiển xe ô tô biển số 60C-051.52 có dấu hiệu khả nghi đang bán 3 con bò cho người dân, Công an xã Lộ 25 đã có mặt.

Những năm gần đây, trên địa bàn Dak Lak phong trào chăn nuôi động vật có nguồn gốc hoang dã như heo rừng, nai, nhím, chồn, cá sấu, rắn... đang phát triển khá mạnh và trở thành hướng đi mới cho ngành Chăn nuôi tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công bước đầu, mô hình này cũng đang gặp không ít khó khăn trở ngại, nhất là về thị trường tiêu thụ.

Sáng 1-11, Hiệp hội Cà-phê - Ca-cao Việt Nam (Vicofa) cho biết: Chín tháng đầu năm 2013, cả nước xuất khẩu được khoảng 1.003.526 tấn cà-phê với kim ngạch đạt hơn 2,211 tỷ USD, giảm 23,1% về khối lượng và 22,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2012.

Cán bộ kỹ thuật nông nghiệp, khuyến nông phải có mặt tại từng địa bàn phối hợp kiểm tra công tác chuẩn bị giống, các giải pháp kỹ thuật sản xuất trước thời điểm gieo sạ, kiên quyết chỉ đạo đúng lịch thời vụ, cơ cấu giống và mật độ gieo sạ theo quy định…