Nghịch lý ngành thủy sản

Theo Bộ NN&PTNT, đã có một số doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu tôm nguyên liệu từ các nước để chế biến xuất khẩu.
Tuy nhiên đó là hiện tượng không thường xuyên.
Việc này chỉ xảy ra trong một số thời điểm nhất định như hết vụ thu hoạch tôm, tôm nguyên liệu trong nước ít và giá cao hơn.
Điều này cũng có thể xảy ra tại thời điểm vụ tôm thu hoạch rộ ở các nước như Ấn Độ, Indonesia… nên giá tôm nguyên liệu nhập khẩu rẻ.
Hiện tại số lượng tôm nguyên liệu nhập khẩu vào Việt Nam khoảng trên dưới 10 nghìn tấn/năm, trong khi sản lượng tôm Việt Nam hằng năm đã đạt xấp xỉ 650 - 700 ngàn tấn.
Giải thích về hiện tượng này, ông Trương Đình Hòe, Tổng thư kí Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cho rằng, việc nhập khẩu các mặt hàng thủy hải sản Việt Nam đã có từ lâu.
Tuy nhiên từ đầu năm đến nay, lượng nhập khẩu của các doanh nghiệp tăng cao, chủ yếu nhập khẩu để gia công chế biến là do nhu cầu thủy hải sản trên thế giới tăng trở lại.
Thêm nữa, trong thời gian qua, nguồn lợi thủy hải sản từ biển của chúng ta đã ít dần, trong khi đó nhu cầu sử dụng nguyên liệu của các doanh nghiệp trong nước lại tăng, đó cũng là nguyên nhân tạo ra sức ép cho việc nhập khẩu.
Với thế mạnh về biển cũng như các vùng chuyên canh, việc khắc phục nhập khẩu nguyên liệu tôm là một yêu cầu bức thiết được đưa ra.
Trước thực trạng này, một số chuyên gia cho rằng, để đảm bảo phát triển bền vững, ngành thủy sản nên tập trung đi theo hướng mới.
Trong đó đáng chú ý là: Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững, hiệu quả, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường và đảm bảo an ninh thực phẩm quốc gia.
Đa dạng hóa đối tượng nuôi và phương thức nuôi với cơ cấu diện tích, sản lượng nuôi phù hợp với từng vùng sinh thái trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh cụ thể của từng sản phẩm.
Phát triển nuôi thâm canh công nghệ cao, nuôi tiết kiệm nước, nuôi an toàn sinh học, bảo vệ môi trường sinh thái và áp dụng thực hành nuôi trồng thủy sản tốt, nuôi trồng thủy sản có chứng nhận.
Bên cạnh đó, Bộ NN&PTNT định hướng phát triển mạnh những loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao để phát triển nuôi ở biển xa, ven hải đảo.
Thúc đẩy hợp tác công tư giữa nhà nước và tư nhân với các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước.
Thực hiện chuyển giao công nghệ nuôi tiên tiến và bao tiêu sản phẩm, khuyến khích các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm để phát triển bền vững.
Có thể bạn quan tâm

Để đạt được mức tăng trưởng như trên thì chi phí bán hàng và chi phí quản lý cũng tăng hơn 45% lên 758 tỷ đồng. Trong đó, chi phí bán hàng đạt 629 tỷ đồng, tăng 40%.

Hiện mặt hàng cá tra đã xuất khẩu sang 150 quốc gia trên thế giới (Hoa Kỳ và EU chiếm gần 40%), giá trị xuất khẩu khoảng 1,8 tỷ USD/năm, trong đó tỷ trọng xuất khẩu cá tra phi lê chiếm khoảng 90%.

Theo Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam, năm 2013, cả nước có gần 320 triệu con gia cầm, trong đó vùng có đàn gia cầm lớn nhất là ĐBSH với hơn 85 triệu con; tiếp đến là ĐBSCL 58,7 triệu con. Tuy nhiên, chăn nuôi gia cầm hiện nay chủ yếu theo quy mô nông hộ, nhỏ lẻ, thiếu liên kết và định hướng thị trường.

Mắc ca là loại cây công nghiệp mới bắt đầu phát triển vào giữa thế kỷ 20 tại Úc, Mỹ, sau đó mở rộng ra một số nước khác như Nam Phi, Guatemala, Nigeria, diện tích trồng trọt đến nay trên toàn thế giới mới đạt 80.000 ha (2014).

Cũng từ đây các cán bộ di truyền giống đã lai tạo chọn lọc thành công một giống lúa cao sản ngắn ngày, trồng được ba vụ trong năm trong tất cả các vùng sinh thái đồng bằng: hạt rất dài (> 7,5 mm), chất lượng cơm không thua kém các giống lúa mùa địa phương quang cảm ở thượng nguồn Mekong (Thái Lan, Campuchia).