Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Nghịch Lý Cao Su

Nghịch Lý Cao Su
Ngày đăng: 09/09/2014

Theo Bộ NN-PTNT, ước tính khối lượng XK cao su tháng 8 đạt 98.000 tấn với giá trị 166 triệu USD, còn trong 8 tháng đầu năm thì XK đạt 548.000 tấn với giá trị 989 triệu USD.

Hiện giá cao su thiên nhiên xuống mức bình quân 30 triệu đồng/tấn (chủng loại SVR 3L), dù giá thấp nhưng vẫn rất khó bán. Nguyên nhân là VN hiện SX quá nhiều chủng loại cao su SVR 3L chất lượng cao, trong khi nhu cầu cần cao su chất lượng thấp hơn như SVR10, SVR20.

Theo dự báo của Tổ chức Nghiên cứu cao su quốc tế (IRSG), đến năm 2020, tổng nhu cầu tiêu thụ cao su thế giới vào khoảng 15 triệu tấn, trong đó khoảng 72% là dùng để SX lốp xe các loại. So sánh với những nước SX cao su trong khu vực hiện nay như Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ thì cơ cấu sản phẩm của ngành cao su VN rõ ràng đã không đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thế giới.

Lý do là trong nước đang có thế mạnh về SX cao su chủng loại SVR 3L, trong khi nhu cầu tiêu thụ SVR 3L đến năm 2020 của thế giới chỉ vào khoảng 150.000 tấn, tức chỉ bằng 1/3 sản lượng SX hiện nay của VN.

Điều này đồng nghĩa là nếu chúng ta vẫn tiếp tục sản xuất SVR 3L thì sẽ dư thừa khoảng 300.000 tấn. Mỗi khi cung vượt quá cầu thì giá SVR 3L sẽ giảm. Lâu nay, giá SVR 3L cao hơn SVR 10, SVR 20 khoảng 200 USD/tấn.

Mức giá bán SVR 3L ở mức 30 triệu đồng/tấn thì nhiều Cty SX đang bán với giá thấp hơn giá thành. Nếu giá cao su vẫn ở mức nói trên đến cuối năm, chắc chắn năm nay, doanh thu, lợi nhuận của nhiều Cty trồng và xuất khẩu cao su sẽ giảm, thậm chí thua lỗ.

Theo Bộ NN-PTNT, ước tính khối lượng XK cao su tháng 8 đạt 98.000 tấn với giá trị 166 triệu USD, còn trong 8 tháng đầu năm thì XK đạt 548.000 tấn với giá trị 989 triệu USD, giảm gần 10% về khối lượng và gần 33% về giá trị so cùng kỳ năm 2013.

Hiện cao su VN xuất sang 72 quốc gia, Trung Quốc và Malaysia vẫn đang là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất, tuy nhiên trong 8 tháng đầu năm 2014, có xu hướng giảm mạnh so cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, Trung Quốc giảm hơn 21% về khối lượng và giảm hơn 40% về giá trị; Malaysia giảm gần 14% về khối lượng và giảm hơn 40% về giá trị.

Theo ông Hà Phước Lộc- Phó TGĐ Cty CP Cao su Đà Nẵng, do nhu cầu SX mỗi năm đơn vị cần khoảng 18.000 tấn cao su, trong đó chủng loại SVR 3L dùng để SX săm (ruột xe) không đáng kể mà cần một lượng lớn cao su SVR 10, SVR 20 để SX lốp xe các loại nhưng không tìm đủ nguồn cung nội địa, đơn vị buộc phải nhập khẩu.

Vì thế, để có thể đáp ứng nhu cầu thị trường, theo Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), các Cty phải có kế hoạch điều chỉnh lại hoạt động SXKD. Cụ thể, nâng sản lượng SVR 10 lên 300.000 tấn, tương đương 25% vào năm 2020 để đáp ứng xuất khẩu.

Còn cao su SVR 20, dự báo thế giới sẽ cần 7,5 triệu tấn vào năm 2020 nhưng trong năm 2013 VN mới chỉ xuất khẩu vỏn vẹn 15.000 tấn SVR 20. Do đó, theo VRA, dù giá bán SVR 20 thấp nhưng các Cty SX chế biến săm lốp vẫn phải nhập khẩu, vì thế ngành cao su trong nước cần thiết phải đầu tư để có được 180.000 tấn đáp ứng nhu cầu nội địa, qua đó hạn chế nhập khẩu.

Điều này có nghĩa là các DN sẽ giảm lượng cao su SVR 3L xuống, tính toán của VRA cho thấy, đến năm 2020, thế giới cần khoảng 150.000 tấn (chưa kể Trung Quốc) nhưng để đảm bảo không bị thụ động các Cty phải tính đến tình huống Trung Quốc giảm nhập khẩu SVR 3L nên tỷ lệ SVR 3L điều chỉnh giảm xuống còn 20% vào năm 2020.

Hiện tại tỷ lệ sản xuất SVR 3L trong nước là 44% tổng sản lượng cao su SX mỗi năm, tương đương 527.000 tấn.

Bên cạnh đó, VRA cũng kiến nghị ngành cao su sớm áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật như TCVN 3769:2004 về cao su khối, TCVN 6314:2013 về cao su ly tâm và tiêu chuẩn Green Book cho cao su tờ xông khói cần được nâng lên thành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia để có tính bắt buộc áp dụng tại VN đối với tất cả các tổ chức, DN và cá nhân có liên quan đến cao su.

Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nhà máy sơ chế cao su thiên nhiên để yêu cầu bắt buộc tuân thủ những quy định từ khâu tiếp nhận nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm đầu ra để tạo sự thống nhất về chất lượng cho cao su VN.


Có thể bạn quan tâm

Giải Pháp Nào Để Bảo Vệ Mỏ Tôm Bó Củng? Giải Pháp Nào Để Bảo Vệ Mỏ Tôm Bó Củng?

Tôm Bó Củng, một loại thủy sản đặc trưng của Sông Gâm đã trở thành món ẩm thực đặc sản của người dân Bắc Mê và nhiều du khách. Hàng trăm năm qua, mỏ tôm Bó Củng đã gắn bó và giúp nhiều hộ dân nơi đây có thêm nguồn thu nhập, ổn định cuộc sống.

04/03/2014
Tổng Cục Thủy Sản Đánh Giá Cao Tiềm Năng Phát Triển Cá Tra Tại Huyện Hồng Ngự Tổng Cục Thủy Sản Đánh Giá Cao Tiềm Năng Phát Triển Cá Tra Tại Huyện Hồng Ngự

Vừa qua, Tổng cục Thủy sản Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đến huyện Hồng Ngự khảo sát các điểm nuôi cá tra thương phẩm và cơ sở sản xuất cá tra bột trên địa bàn huyện để làm cơ sở quy hoạch sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020.

04/03/2014
Ngư Dân Quảng Ngãi Tiếp Tục Trúng Đậm Cá Ngừ, Ruốc Và Cá Cơm Ngư Dân Quảng Ngãi Tiếp Tục Trúng Đậm Cá Ngừ, Ruốc Và Cá Cơm

Một tuần qua, ngư dân hành nghề lưới vây ở xã Bình Thạnh, Bình Đông, huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi) ra khơi đánh bắt hải sản, tàu nào cũng được lộc biển đầu năm, đặc biệt trúng đậm cá ngừ.

04/03/2014
Ngư Dân Phú Yên Trúng Lớn Tôm Hùm Nhí Ngư Dân Phú Yên Trúng Lớn Tôm Hùm Nhí

Ngày 2.3, Phòng NNPTNT huyện Tuy An cho biết, từ nửa tháng qua, ngư dân ven biển của huyện có thu nhập khá cao từ nghề mành tôm hùm con (to bằng đầu đũa) để cung cấp giống cho các vùng nuôi tôm hùm thương phẩm.

04/03/2014
Bệnh Trắng Lá Mía Và Biện Pháp Quản Lý Bệnh Trắng Lá Mía Và Biện Pháp Quản Lý

Bệnh trắng lá mía do dịch khuẩn bào (phytoplasma) gây ra được phát hiện lần đầu tiên ở Đài Loan năm 1958, ở Ấn Độ và Thái Lan năm 1964. Hiện bệnh này chủ yếu thấy xuất hiện ở các nước châu Á như Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Sri Lanka, Campuchia, Lào và Việt Nam. Đây là một bệnh nguy hiểm gây thiệt hại nặng cho SX mía nguyên liệu.

04/03/2014