Nghề Nuôi Nhím Và Sự Suy Thoái

Cái điệp khúc “được mùa, mất giá”, cùng vấn đề đầu ra sản phẩm không ổn định luôn là bài toán nan giải cho các sản phẩm nông nghiệp. Một lần nữa, điệp khúc này lại trở lại đối với nghề nuôi nhím.
Nhớ lại vào những năm 2009-2010, nuôi nhím nổi lên như một nghề góp phần xóa đói, giảm nghèo. Và trên thực tế, tại thời điểm đó, đã có một số hộ gia đình đổi đời nhờ nghề nuôi nhím. Mặc dù số vốn đầu tư ban đầu, đặc biệt là tiền mua nhím giống khá lớn, nhưng nhiều hộ dân vẫn quyết định nuôi, thậm chí có nhiều hộ không ngần ngại vay vốn ngân hàng để đầu tư nuôi nhím với quy mô lớn.
Bởi vậy, cái nghề lạ lẫm đó nhanh chóng được nhân rộng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Theo thống kê của Chi cục Kiểm lâm tỉnh, tại thời điểm 2009-2010, trên địa bàn tỉnh có gần 1.000 hộ dân, nuôi hơn 8.000 cá thể nhím các loại.
Những tưởng sự kỳ vọng về sự đổi đời nhờ nghề nuôi nhím của nhiều hộ dân sẽ trở thành hiện thực, thế nhưng mọi thứ lại ngược lại với sự mong đợi. Những năm gần đây, nghề nuôi nhím không những không giúp các hộ dân xóa đói, giảm nghèo mà còn khiến họ phải lao đao, con nhím vô hình chung lại trở thành gánh nặng cho nhiều hộ dân.
Với vẻ trầm tư, chị Nguyễn Thị Ninh, xã Quảng Vọng (Quảng Xương) kể về sự thăng trầm cùng nghề nuôi nhím. Năm 2010, thấy nhiều hộ dân phất lên nhờ nghề nuôi nhím giống, gia đình chị đã dốc hết vốn liếng để mua về 2 đôi nhím giống, với tổng số tiền gần 40 triệu đồng.
Ban đầu, theo dự tính của gia đình, sau nửa năm, 2 đôi nhím giống cho lứa sinh đầu tiên, mỗi đôi sinh 2 con. Chỉ sau một thời gian ngắn, nghề nuôi nhím đã đem lại cho gia đình chị khoản thu nhập không nhỏ.
Tuy nhiên, thời hoàng kim này không duy trì được lâu, đến năm 2012, nghề nuôi nhím bắt đầu bước vào thời kỳ suy thoái và cho đến nay thì cái nghề từng đem lại lợi nhuận cao lại khiến gia đình chị phải dở khóc, dở cười bởi không có nơi tiêu thụ. Loài con nuôi được xem là đặc sản với giá bán cao ngất ngưỡng tới 400.000-500.000 đồng/1kg thịt thương phẩm, thì nay chỉ còn được bán với giá 1,5 -2 triệu đồng mỗi đôi giống và 120.000-150.000 đồng/1kg nhím thương phẩm mà vẫn không tìm được đầu ra.
Nói về nguyên nhân nghề nuôi nhím tụt dốc thê thảm, hầu hết các hộ nuôi nhím đều cho rằng: Nguyên nhân chính là do không có thị trường tiêu thụ. Sở dĩ, xảy ra tình trạng này là bởi, vốn dĩ đây là nghề tự phát, nên khi nghề nuôi nhím mới xuất hiện, sự hiếu kỳ khiến nhu cầu thị trường và giá cả được đội lên gấp nhiều lần, nhưng khi nghề được phát triển lên đến đỉnh điểm cũng là lúc nhu cầu thị trường bão hòa, bởi vậy giá nhím bị giảm mạnh.
Không những giá bị giảm mạnh mà người nuôi nhím còn không tìm kiếm được thì trường do nhím là loài động vật có thị trường tiêu thụ hẹp, chủ yếu được bán vào các nhà hàng, khách sạn chứ không được bán rộng rãi, phổ biến như những con nuôi khác, nên khi con nhím không còn là của lạ đối với các thực khách nữa thì nhu cầu của những nơi tiêu thụ cũng giảm đi trông thấy. Và lẽ dĩ nhiên, nghề nuôi nhím cũng từ đó mà suy thoái theo.
Sự suy thoái của nghề nuôi nhím có lẽ là bài học và là lời cảnh báo cho các hộ dân chạy theo phong trào, tự phát trong phát triển kinh tế, giá cao thì ồ ạt tăng đàn, đến khi bão hòa thì lại rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Qua bài học từ sự suy thoái của nghề nuôi nhím, thiết nghĩ các cấp, các ngành cần có các chính sách đặc thù để hỗ trợ các hộ dân đầu tư, khuyến khích, bảo tồn gắn với phát triển các loài động vật hoang dã; quy hoạch vùng chăn nuôi như các loại động vật thông thường khác.
Cán bộ nông nghiệp, khuyến nông cần phát huy hơn nữa vai trò để phối hợp với các cấp chính quyền trong việc tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao nhận thức, lựa chọn mô hình chăn nuôi phù hợp, qua đó đưa ra những dự báo, cảnh báo sớm cho người dân để họ không chạy theo các phong trào phát triển kinh tế theo kiểu tự phát.
Có thể bạn quan tâm

7 giờ sáng, chiếc ca nô đưa đội công tác liên ngành rời cảng Phú Hài (Phan Thiết, Bình Thuận) đến với tàu tuần tra của Chi cục Thủy sản, bắt đầu hành trình ngày thứ ba trong cuộc chiến với “bẫy” tôm hùm. Có thể nói, đây là cuộc ra quân quyết liệt nhất từ trước đến nay để trả lại vẻ đẹp cho vùng biển Phan Thiết, lâu nay bị xâu xé bởi mạng lưới “bẫy” tôm hùm.

Với điều kiện đặc thù của nghề nuôi thủy sản lồng bè trên các vùng sông nước, vùng cửa biển thì việc có điện phục vụ nuôi trồng và sinh hoạt thường ngày là cả một vấn đề nan giải… Việc một ngư dân nuôi cá lồng bè trên sông Chà Và, xã Long Sơn, thành phố Vũng Tàu mạnh dạn bỏ số tiền khá lớn đầu tư hệ thống điện gió và bước đầu mang lại hiệu quả rõ rệt đã làm rất nhiều người không khỏi ngạc nhiên và thú vị.

Chiều 13/4, Trưởng Công an xã Đạ Chais (Lạc Dương - Lâm Đồng) Cao Xuân Thịnh khẳng định: “Chưa rõ mục đích của những người tung tin trên, nhưng clip mà các trang mạng thông tin, gây xôn xao dư luận trong những ngày qua chỉ là sản phẩm dàn dựng”.

Thời gian gần đây, một số đối tượng ngang nhiên vào đìa (hay còn gọi là bờ) nuôi thủy sản của người dân ở khu vực (KV) 4, phường Nhơn Bình, TP Quy Nhơn (Bình Định) bắt trộm cá. Đáng nói, tình trạng này xảy ra trong thời gian dài nhưng cơ quan chức năng chưa có biện pháp ngăn chặn, xử lý triệt để.

Tình hình bệnh trên tôm hùm nuôi ở TX Sông Cầu (Phú Yên) diễn biến rất phức tạp, khiến người nuôi gặp khó khăn. Trong khi đó, hiện là thời điểm xuất bán tôm hùm thịt, nhưng giá tôm xuống thấp làm cho người nuôi ở TX Sông Cầu đã khó lại càng khó khăn hơn…