Ngành chè Việt Nam nói không với thuốc bảo vệ thực vật Fipronil

Nội dung trên là một trong những giải pháp chính được nêu ra tại hội nghị "Giải pháp nâng cao chất lượng chè, chủ động hội nhập quốc tế" do Ủy ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng tổ chức tại "thủ phủ chè" Bảo Lộc, ngày 29/7.
Theo Hiệp hội Chè Việt Nam, năm 2015, diện tích, năng suất, sản lượng và xuất khẩu của toàn ngành chè sẽ bị giảm đáng kể, một trong các nguyên nhân đến từ khó khăn của thị trường nên việc đầu tư của doanh nghiệp và nông dân giảm xuống.
Ông Đoàn Trọng Phương, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam, cho biết các thị trường nhập khẩu ngày càng đưa ra quy định nghiêm ngặt hơn, đặc biệt là mức dư lượng tối đa cho phép của các thuốc bảo vệ thực vật (như Đài Loan, Nhật Bản đã hạ mức dư lượng tối đa đối với Fipronil từ 0,005mg/kg xuống còn 0,002mg/kg), nguy cơ thu hẹp thị trường đang diễn ra, nhất là các thị trường truyền thống như Đài Loan, các nước châu Âu.
Theo Trung tâm Phân tích - Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, với mức giới hạn tồn dư tối đa cho phép mà Nhật Bản và Đài Loan thiết lập cho thấy gần như hoạt chất Fipronil hoàn toàn không được xuất hiện trong sản phẩm chè xuất khẩu, do đó cần nói không với Fipronil và thay thế bằng những biện pháp phòng trừ dịch hại theo hướng bền vững.
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lâm Đồng cũng đã xây dựng kế hoạch hành động quản lý dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên chè giai đoạn 2015-2020, với mục tiêu giảm thiểu dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên sản phẩm chè theo quy định Việt Nam và thị trường nhập khẩu các nước, trước mắt trong năm 2016, sản phẩm chè chế biến không còn dư lượng Fipronil.
Đến hết năm 2014, cả nước có khoảng 130.000ha chè; trong đó, diện tích chè kinh doanh khoảng 105.000ha, năng suất bình quân khoảng 7,7 tấn búp tươi/ha.
Sản lượng chè khô khoảng 180.000 tấn; trong đó, xuất khẩu 145.000 tấn (trên 80%) đạt kim ngạch 240 triệu USD; còn lại tiêu thụ trong nước 35.000 tấn, đạt doanh thu 5.000 tỷ đồng. Trong đó, Lâm Đồng có trên 23.000ha chè, sản lượng 223.000 tấn, năng suất bình quân trên 10 tấn/ha, dẫn đầu cả nước (chiếm 21% diện tích và trên 30% sản lượng).
Có thể bạn quan tâm

Đây là mô hình sản xuất mới không chỉ giúp cho sản phẩm sạch sẽ, an toàn và có giá trị dinh dưỡng, mà còn mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người làm nghề.

Mưa dầm làm cho trà lúa hè thu đang đến kỳ thu hoạch bị gãy đổ trên diện rộng. Nước ngập, lúa không thể thu hoạch bằng cơ giới mà phải thu hoạch thủ công. Các khoản chi phí không ngừng leo thang trong khi hạt lúa làm ra kém chất lượng, không đáp ứng được nhu cầu của thị trường.

Xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo (Tiền Giang) được xem là “cái nôi” của nghề nuôi cá bởi địa phương có dòng sông Bảo Định chảy qua cung cấp nước ngọt quanh năm. Nông dân có thể tận dụng diện tích mặt nước mương, vườn sẵn có và đầu tư đào ao nuôi cá các loại, trong đó chủ lực là con cá tai tượng bởi ít tiêu tốn thức ăn, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Xác định công tác quản lý giống thuỷ sản là vấn đề trọng tâm, ngay từ đầu vụ sản xuất, Tổng cục Thủy sản đã triển khai công tác kiểm tra chất lượng đàn thủy sản bố mẹ, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng, chỉ đạo các địa phương kiểm tra, đánh giá, phân loại cơ sở sản xuất giống. Qua đó, tình trạng tự gia hóa tôm thẻ chân trắng bố mẹ ở một số doanh nghiệp đã được phát hiện và chấn chỉnh.

Mô hình ương nuôi cá lóc giống thời gian gần đây phát triển rất mạnh ở các huyện Châu Thành, Châu Phú, Phú Tân của tỉnh An Giang. Điều đáng lưu ý là ở nhiều vùng nông thôn đang rộ lên phong trào lấy đất nông nghiệp để đào ao, vuông thả cá lóc.