Ngành chăn nuôi trước ngưỡng cửa TPP thay đổi để thích ứng

Ngành chăn nuôi phải chủ động trong hội nhập
Theo TPP, ngành chăn nuôi có ít nhất 10 năm (từ năm 2015) để chuẩn bị trước khi thuế xuất nhập khẩu về 0%.
Ông nhận định như thế nào về “thời gian vàng” này?
Đây đúng là “thời gian vàng” để ngành chăn nuôi đẩy mạnh tái cơ cấu, nhanh chóng tổ chức lại sản xuất.
Để làm được điều này, nỗ lực của ngành chăn nuôi chưa đủ mà phải có cơ chế, chính sách phù hợp của nhà nước.
Cụ thể: Chính phủ áp dụng cơ chế tín dụng đặc biệt như: Cho vay lãi suất ưu đãi theo chu kỳ sản xuất, xóa bỏ các khoản phí, lệ phí chăn nuôi, thú y không hợp lý.
Bên cạnh đó, sớm ban hành nghị định về hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới; khuyến khích phát triển chuỗi liên kết giá trị, ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi…
Thưa ông, TPP chưa được ký kết, thịt gà Mỹ, thịt bò Úc… đã tràn vào nước ta với giá rẻ.
Vậy khi TPP có hiệu lực, thịt nhập khẩu dự báo tăng mạnh.
Điều này có đáng lo ngại?
Chúng ta không nên lo lắng quá bởi hiện nay, lượng thịt nhập khẩu chưa đến mức báo động.
Thịt gà nhập khẩu chỉ chiếm 8 - 10% tổng số thịt gà công nghiệp tiêu thụ ở Việt Nam.
Trong khi, ở nước ta, thịt gà công nghiệp chiếm 20 - 25% thị phần, còn chủ yếu là thịt gà của các địa phương, gà lông màu, gà đặc sản…
Do đó, thịt gà công nghiệp nhập khẩu khó cạnh tranh với thịt gà trong nước.
Ngoài ra, thói quen tiêu dùng của người Việt cũng không dễ thay đổi từ “thịt nóng, thịt tươi” sang “thịt đông lạnh”.
Nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam có lợi thế về chăn nuôi gà lông màu.
Vì vậy, ngành chăn nuôi nên phát triển đàn gà lông màu, tăng sức cạnh tranh cho thịt gà trong nước.
Theo ông, điều này thực sự khả quan?
Điều này chưa hẳn đã đúng, nếu ồ ạt chuyển sang chăn nuôi gà lông màu thì gà lông màu sẽ ế.
Khi ế, giá giảm và người chăn nuôi lại lỗ.
Hơn nữa, không phải nước nào, người tiêu dùng cũng thích ăn gà chăn thả.
Tôi không bi quan lắm về chăn nuôi gà công nghiệp bởi nếu tổ chức sản xuất theo chuỗi với quy mô lớn, đầu tư công nghệ cao, giá thịt gà công nghiệp có thể giảm từ 25 - 30%.
Lúc đó, khả năng cạnh tranh của thịt gà trong nước sẽ cao.
Trong ngành chăn nuôi, chăn nuôi bò có phải là ngành chịu nhiều sức ép nhất khi gia nhập TPP?
Thịt, sữa bò và gà công nghiệp là những mặt hàng chịu tác động lớn của TPP.
Bò thịt Việt Nam chỉ đáp ứng được khoảng 50 - 60% nhu cầu; đàn bò sữa chỉ đảm bảo 28% nhu cầu tiêu dùng sữa tươi và đến năm 2020, mới đạt 50% nhu cầu, còn lại 50% vẫn phải nhập… Đáng lo ngại, chúng ta khó cạnh tranh được về giá.
Ví dụ: Sữa New Zealand khoảng 9.000 – 9.400 đồng/lít, trong khi tại Việt Nam, doanh nghiệp đã thu mua của người dân 10.000 – 13.000 đồng/lít.
Tuy nhiên, không vì vậy mà chúng ta làm mọi cách để chăn nuôi, bởi chăn nuôi gia súc đòi hỏi nhiều yếu tố: Quỹ đất lớn, thức ăn xanh, nguồn nước chất lượng…
Xin cảm ơn ông!
Chính phủ cần sớm ban hành nghị định về hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới; khuyến khích phát triển chuỗi liên kết giá trị, ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi.
Có thể bạn quan tâm

Yêu cầu cao hơn về tiêu chuẩn chất lượng thủy sản tại các thị trường như Mỹ, Nhật Bản đang thực sự gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Do đó, việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, trong đó có thị trường Bỉ là cần thiết.

Được sự hỗ trợ của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre, trong vụ lúa trung vụ năm 2011, hộ anh Huỳnh Văn Sên ngụ tại ấp An Bình, xã An Hiệp, huyện Ba Tri đã thực hiện mô hình nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa.

Diện tích nuôi các loại nhuyễn thể ngày một tăng, tuy nhiên, trong khi doanh nghiệp và các hộ dân đầu tư lớn cho nghề nuôi nhuyễn thể thì nghề nuôi này lại luôn tiềm ẩn nguy cơ bị dịch bệnh, gây thiệt hại nặng nề nếu không được phòng bệnh kịp thời trong quá trình nuôi.

Tại các chợ truyền thống, giá quả tươi đã bắt đầu rục rịch tăng. Cho dù giá thanh long tại các vườn ở tỉnh Bình Thuận đang rớt giá thê thảm, nhưng tại Hà Nội, giá thanh long vẫn tăng không ngừng. Cụ thể, giá thanh long ruột đỏ tại một số chợ hiện được bán 60.000 đồng/kg, thanh long thường có giá 35.000 đồng/kg.

Phú Vang là một trong những xã nghèo của huyện Bình Đại, với diện tích tự nhiên 997ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 641ha, dân số toàn xã 1.184 hộ, trong đó có 189 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 16,13%. Kinh tế chủ yếu là trồng lúa và dừa, tiềm năng về nuôi thủy sản với hình thức xen canh khá mạnh nhưng chưa được đầu tư khai thác có hiệu quả, chủ yếu là hình thức nuôi nhử tôm, cá từ tự nhiên hiệu quả thấp.