Ngành chăn nuôi sẽ chịu thiệt nhất từ TPP và AEC

Ngày 9-9, tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hằng, kinh tế trưởng Nhóm nghiên cứu “Đánh giá tác động của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Công đồng kinh tế ASEAN (AEC) lên ngành chăn nuôi Việt Nam" cho rằng: “Ngành chăn nuôi không được coi là một ngành có lợi thế cạnh tranh, dễ chịu tác động tiêu cực nhất từ các hiệp định thương mại tự do.
Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) công bố hôm nay cho thấy, sản xuất nhỏ lẻ, lệ thuộc nhập khẩu, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường và vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) thấp, liên kết lỏng lẻo dẫn đến năng suất thấp, sức cạnh tranh yếu, gây bất lợi cho thương mại khi hội nhập.
Sản xuất trong nước sẽ bị thu hẹp do cạnh tranh chính đến từ các nước tham gia TPP, đặc biệt là ngành thịt. Trong khi người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu sẽ được hưởng lợi nhất khi nền kinh tế hội nhập.
Nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng, quy mô chăn nuôi bò sữa phần lớn là các nông hộ với số lượng nuôi chỉ vài con, sẽ phải chịu thiệt hại nhiều nhất, do họ có vị thế thấp, không có khả năng đàm phán về giá. Giá thu mua sữa đều do các công ty quyết định.
Bên cạnh đó, họ chưa chủ động được hoàn toàn nguồn thức ăn, trong khi việc hỗ trợ từ Nhà nước còn chậm. Nhóm thứ hai là nhóm hợp tác xã bị ảnh hưởng nhẹ hơn, do có sự liên kết giữa các hộ chăn nuôi để nâng cao vị thế đàm phán.
Nhóm có khả năng cạnh tranh cao là các trang trại quy mô lớn, có công nghệ hiện đại, giúp giảm giá thành sản xuất, tự chủ nguồn thức ăn, bảo đảm chất lượng, VSATTP.
Cũng theo nhóm nghiên cứu, thị trường bò thịt cũng sẽ chịu tác động tiêu cực, nhưng tác động sẽ nhẹ và chậm hơn do thói quen tiêu dùng. Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hằng cho biết, quy mô sản xuất bò thịt cũng phần nhiều là nông hộ nhỏ.
Vì vậy các thương lái đóng vai trò rất quan trọng và là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của các trang trại chăn nuôi lớn. Các thương lái thành lập hoặc liên kết với các lò mổ nhỏ để giảm giá thành, trong khi các lò mổ lớn đòi hỏi đầu tư lớn, quy trình bảo đảm VSATTP chặt chẽ.
Thói quen sử dụng thịt “nóng”, thịt tươi mà ít sử dụng thịt động lạnh nhập khẩu sẽ làm giảm tác động lên ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm sau hội nhập. Tuy nhiên, bà Thu Hằng cảnh báo, thói quen này sẽ thay đổi theo thời gian, vì ngày càng nhiều coi trọng VSATTP hơn, họ sẽ chuyển sang ăn các loại thịt đông lạnh vì sự an toàn hơn.
Nghiên cứu cũng đưa ra các khuyến nghị để nâng cao năng suất và sức cạnh tranh của các sản phẩm trong nước là cần chú trọng khuyến khích đầu tư chăn nuôi quy mô lớn, đi cùng với hệ thông giết mổ tập trung và phân phối, bán lẻ có làm lạnh.
Nhóm nghiên cứu cho rằng, chăn nuôi quy mô nông hộ không nên được khuyến khích quá đà. Các hỗ trợ nông dân nên tập trung chủ yếu vào chuyển đổi từ nhỏ sang lớn, nhờ liên kết thông qua hợp tác xã, hoặc chuyển đổi sang ngành nghề khác.
Tại diễn đàn, ông Okiura Fumihiko, Phó trưởng đại diện Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (Cơ quan giúp đánh giá tác động TPP và AEC lên ngành chăn nuôi Việt Nam) cho rằng, trong khi Viêt Nam dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, thì ngành chăn nuôi lại đang tụt lại phía sau, đặc biệt sau khi Cộng đồng ASEAN hình thành và gia nhập TPP.
Vì vậy, vị chuyên gia người Nhật nhấn mạnh, sự tham gia của khu vực tư nhân là vô cùng quan trọng và không thể thiếu, nếu Việt Nam muốn phát triển ngành này. Ông Okiura Fumihiko nói: “Vai trò của Chính phủ ở đây không phải là dẫn dắt, mà chỉ nên hỗ trợ khối tư nhân phát triển nông nghiệp”.
Có thể bạn quan tâm

Nghề đánh bắt tôm nhí (tôm hùm con) từ lâu nay được biết đến là một trong những nghề có thu nhập "khủng" của ngư dân vùng biển. Song, để có nguồn thu nhập đó là điều không đơn giản. Có đi, nghe và thấy mới hiểu được những những khó khăn của ngư dân trong những đêm trắng mưu sinh trên biển "săn lộc trời"!

Sự chuyển biến đó là kết quả thực hiện các quyết định của Chính phủ về một số chính sách khuyến khích ngư dân khai thác hải sản vùng biển xa, và hiện nay là triển khai Nghị định 67 về phát triển thủy sản nhằm thúc đẩy sản xuất, ổn định đời sống ngư dân gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh biển đảo. Là kết quả khai thác lợi thế điều kiện tự nhiên để nuôi trồng và sản xuất tôm giống, cá nước ngọt, cá lồng bè trên biển.

Để nghề nuôi tôm trên địa bàn phát triển một cách bền vững, mang lại hiệu quả và lợi ích lâu dài, năm 2013 - 2014 Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh đã thực hiện nuôi tôm chân trắng theo mô hình VietGAP tại Móng Cái. Bước đầu mô hình đã mang lại hiệu quả kinh tế, mở ra hướng đi mới cho nghề nuôi tôm của thành phố.

Năm 2015, ngành Nông nghiệp và PTNT phấn đấu tăng diện tích nuôi trồng thủy sản lên 5.800ha; sản lượng đạt 8.000 tấn, chú trọng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học về giống, thức ăn, chế phẩm sinh học; quy trình kỹ thuật nuôi trồng, phòng trừ dịch bệnh thủy sản theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng…

Theo tính toán của các hộ, việc sử dụng đệm lót sinh học vào chăn nuôi không những giảm thiểu ô nhiễm môi trường, dịch bệnh mà còn giúp người dân tiết kiệm được 15% chi phí về điện, nước, công dọn chuồng trại, tăng trọng con nuôi nhanh, khoảng 10 - 15% so với chăn nuôi theo phương thức truyền thống.