Nâng Cao Hiệu Quả Quản Lý, Khai Thác Các Công Trình Thủy Lợi

Huyện Tủa Chùa hiện có 66 công trình thủy lợi, đảm bảo nước tưới cho 1.101,5ha lúa mùa; 368ha lúa chiêm và 4ha thủy sản. Bên cạnh đó, các công trình thủy lợi còn đảm bảo nước tưới cho trên 300ha rau màu, cây công nghiệp; cung cấp hàng triệu mét khối nước phục vụ sinh hoạt và chăn nuôi.
Song hiện công tác quản lý, khai thác các công trình thủy lợi trên địa bàn huyện Tủa Chùa còn tồn tại không ít khó khăn, bất cập: Trên 80% công trình thủy lợi sau khi được bàn giao đưa vào sử dụng chưa phát huy tối đa năng lực tưới, hoặc nhanh chóng xuống cấp không đáp ứng được chỉ số năng lực tưới thiết kế.
Thậm chí, một số công trình thủy lợi mới đưa vào vận hành đã hỏng, không phát huy hiệu quả, gây lãng phí... Trước thực trạng trên, Huyện ủy, UBND huyện Tủa Chùa đã chỉ đạo các cơ quan chức năng tham mưu, đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu quả khai thác, quản lý các công trình thủy lợi.
Ông Đỗ Xuân Huấn, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tủa Chùa, cho biết: Bên cạnh những nguyên nhân khách quan: do địa hình chia cắt bởi núi cao, vực sâu; địa chất thiếu tính ổn định, thường xảy ra lũ bùn, lũ quét, sụt sạt trong mùa mưa thì những nguyên nhân chủ quan đã và đang ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả các công trình thủy lợi.
Năng lực cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế, đặc biệt là về kỹ thuật; phần lớn diện tích tưới trên địa bàn huyện được miễn thủy lợi phí nên kinh phí duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước. Từ đó, một số cán bộ và người dân trên địa bàn coi công tác quản lý, khai thác công trình thủy lợi là nhiệm vụ của Nhà nước, dẫn tới tư tưởng trông chờ ỷ lại và sử dụng nước lãng phí.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên, đối với các công trình thủy lợi đã và đang sử dụng, huyện đầu tư cải tạo, nâng cấp gắn với xây dựng đường giao thông nội đồng, kết hợp với vận động nhân dân dồn điền, đổi thửa, san phẳng đồng ruộng để thuận lợi khi áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất. Mỗi năm, huyện dành từ 2 - 3 tỷ đồng duy tu, sửa chữa, nâng cấp các công trình thủy lợi.
Ngoài ra, huyện quan tâm rà soát, củng cố, kiện toàn các tổ dùng nước trên cơ sở tự nguyện, hợp tác, bình đẳng, đồng sở hữu tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong tổ. Cách làm này đã dần nâng cao ý thức người dân trong quản lý, bảo vệ các công trình thủy lợi. Hiện nay, toàn huyện có 9 tổ dùng nước, hoạt động nề nếp và tương đối hiệu quả, đảm bảo nước sản xuất cho diện tích gieo trồng được giao.
Mỗi năm, huyện cử từ 7 - 10 lượt cán bộ, công chức đào tạo, tập huấn nâng cao kỹ năng, phương pháp tham gia quản lý, khai thác các công trình thủy lợi; kỹ thuật, phương pháp tưới tiết kiệm... Sau đó, về địa phương phổ biến lại kiến thức tập huấn cho UBND các xã, thị trấn và các tổ dùng nước trên địa bàn. UBND huyện còn chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp, hướng dẫn chính quyền cơ sở xây dựng kế hoạch quản lý và khai thác các công trình thủy lợi cụ thể.
Từng bước nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác các công trình thủy lợi, những năm qua, chất lượng các công trình thủy lợi trên địa bàn được nâng lên rõ rệt.
Một vài công trình thủy lợi như: Nà Áng, Tân Phong, Háng Tơ Mang (xã Mường Báng); thủy lợi Đề Bâu - Đun Nưa; thủy lợi Nà Pộ (xã Mường Đun)... sau khi đưa vào sử dụng, tu sửa, cải tạo, nâng cấp đã tạo điều kiện để người dân địa phương mở rộng khai hoang phát triển sản xuất.
Dự tính, năm 2014 nhân dân các dân tộc trong huyện sẽ khai hoang được trên 60ha ruộng nước, sử dụng nước tưới từ các công trình thủy lợi đã và đang xây dựng.
Có thể bạn quan tâm

Ngay từ những năm đầu của thập niên 1990, nghề NTNL đã xuất hiện và bắt đầu từ năm 2000 NTNL phát triển nhanh chóng. Theo số liệu thống kê của cơ quan chức năng, năm 2000 diện tích NTNL toàn tỉnh chỉ đạt 2.617 ha với sản lượng 1.348 tấn, tạo việc làm cho 5.000 lao động; đến năm 2012 diện tích thả nuôi tôm toàn tỉnh đạt 5.082 ha, sản lượng đạt 11.821 tấn và tạo ra việc làm ổn định cho hơn 10.000 lao động địa phương.

Sau thời gian giá nhím con ở mức khá cao: khoảng 15 triệu đồng/cặp, thì hiện nay người chăn nuôi chỉ cần đầu tư khoảng 1,2 triệu đồng/cặp để chăn nuôi. Giá nhím giống giảm mạnh cũng kéo theo giá nhím thịt giảm từ trên 500.000 đồng xuống chỉ còn 150.000 đồng/kg.

Mùa khai thác thủy sản năm nay được xem là thất bát nặng nề nhất trong 20 năm qua. Ngư dân dù đã và đang được hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước, nhưng do biển mất mùa, chi phí đánh bắt tăng cao nên hiện tại họ đang gặp rất nhiều khó khăn. Dẫu vậy, nhiều chủ tàu vẫn tìm mọi cách huy động vốn, kể cả vay “tín dụng đen” để “đặt cược” trong những chuyến biển cuối vụ khai thác…

Người nuôi cá tra tại ĐBSCL vẫn phải tiếp tục chịu lỗ, dù diễn biến trên thị trường đang có lợi họ, đặc biệt khi nguồn cung nguyên liệu đang sụt giảm và thị trường nhập khẩu dần “ấm” lên. Viễn cảnh trên cho thấy người nuôi cá tra thật sự đã hết cơ hội với nghề này.

Thời gian gần đây, giá heo tại Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng, vùng Đông Nam bộ nói chung, đã tăng mạnh do thương lái ồ ạt thu mua heo mỡ. Giá heo tăng làm cho người chăn nuôi phấn khởi sau một thời gian dài lỗ nặng, tuy nhiên cũng tiềm ẩn không ít rủi ro nếu như thương lái ngừng mua.