Mô Hình Nuôi Nhông Ở Xã Vùng Cát Bình Sa

Vùng cát ven biển của tỉnh Quảng Nam chiếm một diện tích rất lớn, khoảng trên 35.000 ha, tiềm lực và tiềm năng đều thua kém so với các vùng khác trong tỉnh. Trong nhiều năm qua tỉnh đã thu hút được nhiều dự án, chủ yếu là các dự án trồng rừng phòng hộ ven biển chống cát bay như PACSA, JICA… đã đem lại hiệu quả rất lớn về kinh tế - xã hội và môi trường. Thế nhưng, đời sống người dân vùng cát vẫn còn gặp nhiều khó khăn, sản xuất nông nghiệp từ trước đến nay chủ yếu cơ cấu cây trồng là các loại cây hoa màu như: đậu, rau, mè và cây có củ các loại chiếm hơn 40% tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt, mà chưa đưa ra được các giải pháp hoặc phương thức sản xuất phù hợp để đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân vùng ven biển. Vì vậy, tìm hướng đi mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng – con vật nuôi để giúp người dân vùng cát thoát nghèo và làm giàu bền vững, luôn là nỗi trăn trở của ngành, các cấp.
Trong vài năm trở lại đây, một số nông dân vùng cát đã mạnh dạn tìm hướng đi riêng cho mình, đầu tư triển khai nhiều mô hình như sản xuất rau theo hướng sạch hoặc sản xuất hoa – cây cảnh…, tuy chỉ tự phát nhưng bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao. Điển hình như hộ ông Nguyễn Hồng Anh tại thôn Tiên Đỏa, xã Bình Sa, trước đây gia đình ông chủ yếu sản xuất lúa, rau và phát triển chăn nuôi với những loài vật nuôi truyền thống như Bò, heo, gia cầm…Tuy nhiên, mấy năm trở lại đây, do tình hình dịch, bệnh lở mồm long móng, cúm H5N1 … nên đã gây rất nhiều khó khăn cho người chăn nuôi. Chính vì lẽ đó đã đặt ra cho ông nhiều trăn trở và càng thôi thúc ông phải tìm hướng đi mới cho mình. Sau thời gian tìm hiểu các tài liệu kỹ thuật và học hỏi kinh nghiệm từ mô hình nuôi Nhông ở vùng cát các tỉnh bạn, được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương và Trạm Khuyến nông – Khuyến lâm Thăng Bình hỗ trợ 10 triệu đồng mua 1.000 con Nhông giống và hướng dẫn kỹ thuật nuôi, hộ gia đình ông đầu tư khoảng 5 triệu đồng để xây dựng tường gạch bao kín với diện tích 100m2, mật độ thả 8 ÷ 10 con/m2.
Trao đổi với chúng tôi về kinh nghiệm và kỹ thuật nuôi thì được ông chi biết: Vì loài Nhông không giống như những loài vật khác, chúng rất nhút nhát nên chuồng phải được xây dựng ở những nơi yên tĩnh, cao ráo không bị ngập nước và thậm chí sau khi thả Nhông giống phí trên khu nuôi ta dung lưới thưa bao phủ để tránh sự xâm nhập của những loài vật khác gây hại cho Nhông (chó, mèo, chuột, gà…). Đáy chuồng phải được lót bằng gạch hoặc nền xi măng dày khoảng 2 ÷ 3 cm để không cho Nhông đào hang chui đi, nhưng phải bảo đảm khi mưa nước phải rút nhanh. Tường xây bằng gạch, cao từ 1,2 ÷ 1,5m, mặt trong của tường tô xi măng thật láng hoặc dùng tôn láng đóng xung quanh, đặc biệt đối với các góc của tường không nên xây và tô vuông góc mà nên làm theo hình vòng cung hình bán nguyệt để Nhông không thể bám chân vào các góc leo ra ngoài. Trong khu nuôi trồng thêm các loại cỏ (Cỏ ruzi, cỏ sả...) vừa giữ ẩm bề mặt đất nhưng lại vừa cung cấp thêm thức ăn cho Nhông hoặc bố trí hệ thống bơm nước để phun giữ ẩm chuồng nuôi trong mùa nắng; còn nếu bóng che khu nuôi không đảm bảo thì trồng một số loài cây gỗ nhở che bóng, đảm bảo tán che chiếm khoảng 1/2 ÷ 1/3 diện tích khu nuôi.
Nhông rất dễ nuôi, không kén ăn, thức ăn chủ yếu tận dụng từ các loại hoa màu, rau quả xung quanh vườn nhà như bí đỏ, rau muống, dưa, cà chua, cà rốt… Mỗi ngày Nhông chỉ ăn 1 lần vào lúc sang sớm, nên vào lúc chiều tối phải quét dọn chuồng và lấy hết những loại thức ăn dư thừa; Nhông chỉ lên mặt đất và tìm thức ăn khi trời nắng, còn khí trời mưa hoặc vào mùa mưa thì hầu như chúng không lên khỏi mặt đất nên rất ít tốn thức ăn. Như vậy Nhông chỉ hoạt động trên mặt đất trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 9, còn thời gian đẻ và nở trứng từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau và trong thời gian này người nuôi không nên đi lại trong khu nuôi nhiều để tránh làm sập hang ảnh hưởng đến trứng và Nhông con; từ lúc thả giống nuôi đến khi động dục khoảng 5,5 ÷ 6 tháng. Mỗi lứa đẻ được từ 4 ÷ 5 trứng, khoảng 40 ÷ 45 ngày thì trứng nở, sau nở khoảng 30 ÷ 45 ngày là có thể bán làm giống. Ông cho rằng, do thời gian đầu chưa có nhiều kinh nghiệm và Nhông còn lạ với môi trường nuôi nên tỷ lệ sống chỉ khoảng 80%, nhưng đến nay Nhông đã thích nghi với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu, phát triển tốt, khả năng kháng bệnh cao. Qua gần 10 tháng nuôi ông xuất bán khoảng 40 kg Nhông thương phẩm với giá 300.000 đ/kg (Khoảng 4 ÷ 5 con/kg), nêu bán hết lứa Nhông này ông sẽ thu được khoảng 50 ÷ 60 triệu đồng sau khi trừ các khoản chi phí (tiền giống, xây chuồng trại, thức ăn, công lao động), lợi nhuận thu được 35 ÷ 40 triệu đồng. Nhưng hiện nay, ông không xuất bán hết vì dự định của ông là để lại để nhân giống nhằm mở rộng quy mô nuôi và cung cấp giống cho nhu cầu thị trường thì sẽ thu lợi nhuận cao hơn nhiều so với bán thương phẩm.
Việc nuôi Nhông rất dễ so với các loài vật nuôi khác những cho hiệu quả kinh tế cao hơn, ai cũng có thể nuôi được vì “hợp túi tiền” của các hộ gia đình vùng cát, vốn đầu tư ít; thức ăn đơn giản, rẻ, lại dễ kiếm; nếu mở rộng quy mô nuôi thì cũng dễ chủ động được nguồn giống. Vì diện tích đất cát của tỉnh hiện nay còn rất lớn, mong rằng, song song với công tác đầu tư phát triển rừng phòng hộ ven biển thì các ngành, các cấp cần có cơ chế khuyến khích, tăng cường công tác tuyên truyền để tiếp tục nhân rộng mô hình này trong thời gian đến.
Có thể bạn quan tâm

18 hộ nông dân tham gia được Cty CP Chứng nhận GLOBALCERT trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật theo quy trình VietGAP. Từ mô hình, đã cho ra sản phẩm xoài an toàn đầu tiên của TP Quy Nhơn dựa trên 4 tiêu chí: Chuẩn về kỹ thuật SX; an toàn thực phẩm; môi trường làm việc; truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Thời gian gần đây, nông dân trồng chuối già và chuối cau tại TP Cần Thơ và nhiều tỉnh ĐBSCL rất thuận lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm do có nhiều thương lái tìm mua các loại chuối già và chuối cau đã tới lứa với giá khá cao.

Ngày 13-9, nông dân bán khóm cho thương lái với giá 7.200 đồng/trái (khóm nặng từ 1 kg trở lên). “Khoảng hơn một tháng nay, giá khóm từ chỗ 2.000 đồng/trái đã nhảy lên mức 7.000 – 8.000 đồng/trái. Đây là mức giá cao nhất từ trước tới nay”, lão nông Sáu Bảnh ở xã Hỏa Tiến, thành phố Vị Thanh cho biết (ảnh). Hiện tỉnh Hậu Giang có khoảng 1.600ha khóm, tập trung ở huyện Long Mỹ và thành phố Vị Thanh. Nông dân trồng khóm vụ nghịch tập trung chủ yếu ở xã Hỏa Tiến, thành phố Vị Thanh. Hỏa Tiến có hơn 1.000 hộ thì có đến 50% hộ canh tác cây khóm với diện tích gần 950ha. Năng suất khóm bình quân 8.000 trái/ha, với mức giá hiện nay nông dân trồng khóm vụ nghịch đạt mức lợi nhuận khoảng 40 triệu đồng/ha. Đa số người dân ở đây trồng giống khóm Queen, gắn với đặc thù thổ nhưỡng đất nhiễm phèn mặn nên khóm cho vị ngọt và thơm rất đậm đà. Đây cũng là điều đặc biệt tạo nên thương hiệu khóm Cầu Đúc. Trong đó, nhiều người dân đã lập trang trại trồng khóm đến 100ha để cung ứng cho các nhà máy chế biến ở Tiền Giang và TPHCM

Năm 2010, gia đình chị Hương chuyển 400 m2 đất vườn trồng rau ngót sang trồng ổi ngọt Đài Loan. Từ 20 cây ổi ban đầu, giờ trong vườn của gia đình chị đã có trên 100 gốc. Giống ổi này phát triển nhanh, thời gian thu hoạch dài (khoảng 4 - 5 tháng/năm), hiếm khi bị sâu bệnh.

Với mong muốn thúc đẩy mối quan hệ hợp tác Việt – Nga, ông Maxim Golikov - trưởng đại diện thương mại Nga tại VN cho biết Nga đang có chính sách tăng cường nhập khẩu nông sản từ Việt Nam. Thêm vào đó, lệnh cấm lệnh cấm nhập hoa quả từ EU đã thúc đẩy Nga trở về với thị trường Châu Á.