Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Lối ra phải hình thành từ vùng sản xuất lớn

Lối ra phải hình thành từ vùng sản xuất lớn
Ngày đăng: 28/07/2015

Cánh đồng lớn, lời giải cho nông dân sản xuất nhỏ

Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, chuyên gia nông nghiệp đã chỉ ra cụ thể những yếu kém mang tính “hạ tầng”: Hệ thống máy móc thiết bị sau thu hoạch như máy sấy, kho tàng dùng bảo quản tồn trữ, chế biến lương thực còn nhiều bất cập chưa đảm bảo yêu cầu, tổn thất khâu thu hoạch và sau thu hoạch lúa còn rất cao. Các phụ phẩm trong sản xuất lúa như rơm, trấu,… chưa tận dụng hết, còn lãng phí và gây ô nhiễm môi trường. Việt Nam đã tham gia xuất khẩu gạo trên 20 năm, hệ thống kinh doanh lương thực đã được xã hội hóa nhưng hoạt động hiệu quả chưa cao, nhất là trong xuất khẩu, gạo Việt Nam chưa có thương hiệu nên giá trị không cao, sức cạnh tranh còn thấp.

Thực tế, mô hình sản xuất cánh đồng lớn (CĐL) đang phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều nhược điểm đã bộc lộ sau khoảng 5 năm hình thành. Song, các chuyên gia lúa gạo cho rằng, mô hình CĐL là một mô hình tốt, cần được nghiên cứu thấu đáo từ lý luận. Đặc biệt là từ thực tiễn sôi động và phong phú của sản xuất lúa ở vùng ĐBSCL để tránh làm theo phong trào, tiếp tục hoạch định cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển đúng hướng, bền vững. Thực tiễn vừa qua ở ĐBSCL cho thấy, sản xuất lúa gạo trong CĐL vẫn tồn tại nhiều bất ổn, cần được tiếp tục tháo gỡ để hoàn thiện. Những thách thức và vướng mắc của mô hình này vượt ngoài tầm nỗ lực của một vài doanh nghiệp liên kết trong sản xuất nông nghiệp.

Những thách thức lớn hơn từ đồng ruộng mà CĐL đang đối mặt là mâu thuẫn giữa mục tiêu xây dựng đội ngũ nông dân hiện đại, chuyên nghiệp với thực trạng thu nhập thấp của lao động nông nghiệp hiện nay. Nó đang đòi hỏi sự chuyển đổi căn bản, toàn diện và cần những cải cách mạnh mẽ hơn nữa từ cơ chế, chính sách đồng bộ gắn với tái cơ cấu nông nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh và thu nhập cho nông dân và xây dựng nông thôn mới.

“Những bất ổn nội tại của CĐL là liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp vẫn lỏng lẻo. Chuyện “bẻ kèo” khi thị trường có biến động đã diễn ra ở cả hai phía doanh nghiệp lẫn nông dân mà bên thiệt hại không thể làm gì được, bởi hiện không có quy định pháp luật cụ thể để xử lý. Doanh nghiệp đầu tư, ứng giống cho nông dân khi bị “xé hợp đồng” không biết kêu ai. Ngược lại, để đáp ứng điều kiện được xuất khẩu gạo, có xu hướng doanh nghiệp hợp thức hóa việc liên kết xây dựng vùng nguyên liệu hơn là quyết tâm hợp tác thực sự, doanh nghiệp “quay lưng” với nông dân khi giá gạo xuống thấp” - ông Trần Hữu Hiệp chỉ ra những mâu thuẫn đang phát sinh. Thực tế đang cần một cơ chế pháp lý và xử lý theo luật hợp đồng liên kết để bảo vệ các quan hệ mới một cách hữu hiệu qua CĐL. Nhìn rộng ra là cơ chế pháp lý về liên kết vùng ĐBSCL, trong đó có liên kết doanh nghiệp và nông dân.

Các chuyên gia lúa gạo cho rằng, thị trường vẫn là khâu quyết định cho chuỗi giá trị gạo. Sản xuất chỉ dựa vào công suất nhà máy sẽ đem lại rủi ro lớn. Tổ chức sản xuất khép kín theo chuỗi giá trị, từ khâu giống, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến ra gạo thành phẩm: Từ lý thuyết (kế hoạch) cho tới tổ chức thực tiễn còn rất nhiều diễn biến không thể trù tính hết, nếu không biết phân tán rủi ro, biết dựa vào sức dân, thì kết quả kinh doanh lỗ là điều không tránh khỏi.

Mô hình chuỗi giá trị gạo, gắn nhà máy chế biến với tổ chức CĐL (một số doanh nghiệp đang thực hiện), muốn thành công cần phải lộ trình, từng bước, từ thấp đến cao, không nóng vội, không theo phong trào, mà phải tỉnh táo dựa vào thực lực, nội tại của từng doanh nghiệp (nhân lực, vốn), có những bước đi thích hợp. Phân kỳ đầu tư không đúng, chi phí nội tại quá lớn, đánh giá không đúng tình hình, dẫn đến lỗ kéo dài, không có nguồn bù lỗ, mô hình sẽ “tê liệt”!

Xác lập chuỗi giá trị sản xuất lúa - gạo

Trong khi đó, có ý kiến cho rằng trong sản xuất lúa, gạo hiện nay điều quan trọng là: cần có chính sách tách biệt hẳn các hệ thống và chiến lược xuất khẩu gạo mang tính “chính trị - xã hội” và tính thương mại để có chính sách rõ ràng. Phân biệt giữa hai mục tiêu để tăng cường hỗ trợ nhóm thực hiện mục tiêu chính trị - xã hội, giải phóng một phần gánh nặng để tăng lợi nhuận, đồng thời nâng cao trách nhiệm cho nhóm thương mại. Do tính chất “nhạy cảm” của vấn đề an ninh lương thực nên một số doanh nghiệp đang bị đặt vào tình thế ngày càng khó khăn khi phải theo đuổi cả hai mục tiêu thương mại và xã hội, phục vụ và kiếm lời mà họ lại chưa được chuẩn bị tốt để làm tốt những mục tiêu này.

Thương mại hóa ngành sản xuất lúa gạo, đặc biệt là hiện đại hóa chuỗi giá trị hạt gạo, bao gồm đổi mới thể chế, cải tiến công nghệ, ứng dụng ngày càng nhiều hơn các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, hướng đến sản xuất bền vững hơn với môi trường, chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn. Khả năng cạnh tranh của ngành phải xây dựng trên cơ sở hiệu quả và đổi mới, chứ không phải trên thù lao giá rẻ cho nông dân hay phong trào xây dựng CĐL. Vì vậy, khi triển khai mô hình CĐL phải được xây dựng trên một quy hoạch sản xuất lúa được tiếp cận theo lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh vùng. Cần áp dụng phân vùng theo không gian, có chính sách hỗ trợ khác nhau ở “vùng lõi”, “vành đai” và các khu vực trồng lúa bình thường khác, có xem xét mục tiêu sản xuất lúa cho an ninh lương thực hay lúa hàng hóa.

Các chuyên gia lúa gạo khá đồng quan điểm khi cho rằng, sản xuất nông nghiệp theo phương thức CĐL là xu thế tất yếu của nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Chỉ có hình thức sản xuất này chúng ta mới chủ động kiến tạo các vùng nguyên liệu đặc thù, chủ động áp dụng kỹ thuật trong cùng một thời điểm với quy mô diện tích gieo trồng lớn. Đồng thời chủ động khắc phục những điểm yếu của nông sản Việt Nam cắt bỏ bớt những chi phí bất hợp lý trong sản xuất mà những chi phí này làm tăng giá thành sản xuất và giảm bớt thu nhập của người nông dân sản xuất nông nghiệp. Việc áp dụng mô hình “chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp” sẽ giúp nông dân tăng thu nhập, giúp cho mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thêm bền vững và như vậy “cánh đồng lớn” sẽ được phát triển cả về lượng và chất lượng.


Có thể bạn quan tâm

Vĩnh Linh phát triển đàn bò lên gần 10.000 con Vĩnh Linh phát triển đàn bò lên gần 10.000 con

Trước đây, các hộ gia đình nông dân ở huyện Vĩnh Linh (Quảng Trị) chăn nuôi bò theo quy mô nhỏ lẻ, mỗi hộ thường nuôi từ 1 đến 2 con. Những năm trở lại đây, việc chăn nuôi bò mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững nên được các hộ gia đình đầu tư để phát triển đàn bò trên quy mô lớn, mỗi hộ nuôi từ 5 đến 10 con, nhiều hộ có đàn bò lên đến trên 20 con.

31/07/2015
Hoằng Phụ (Thanh Hóa) mở rộng diện tích nuôi thủy sản theo hướng hiệu quả, bền vững Hoằng Phụ (Thanh Hóa) mở rộng diện tích nuôi thủy sản theo hướng hiệu quả, bền vững

Xã Hoằng Phụ (Hoằng Hóa - Thanh Hóa) có tổng diện tích 200 ha nuôi trồng thủy sản, trong đó có 106 ha nuôi công nghiệp và 94 ha vùng ngoại đê. Đối với diện tích vùng ngoại đê, UBND xã Hoằng Phụ chỉ đạo chủ ao đầm nuôi đa con, đa canh và đa thời vụ, trong đó tôm sú, cua là đối tượng chính, đồng thời mở rộng diện tích nuôi bán thâm canh các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như tôm he chân trắng, vẹm, ngao...

31/07/2015
Quảng Ninh có hơn 400ha nuôi trồng thuỷ sản có nguy cơ mất trắng Quảng Ninh có hơn 400ha nuôi trồng thuỷ sản có nguy cơ mất trắng

Theo tin từ Chi cục Nuôi trồng thuỷ sản, đợt mưa lớn kéo dài trong các ngày từ 26 đến 28/7 đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

31/07/2015
Mở rộng diện tích nuôi cá nước lạnh ở Quảng Thừa Mở rộng diện tích nuôi cá nước lạnh ở Quảng Thừa

Doanh nghiệp tư nhân Thịnh Long đang đầu tư mở rộng từ 2.000 mét vuông tăng lên 3.000 mét vuông diện tích mặt nước nuôi cá nước lạnh ở Quảng Thừa, Đà Lạt, dự kiến đạt tổng sản lượng trên dưới 10 tấn/năm, trong đó chiếm 70% cá tầm và 30% cá hồi. Sau 4 năm (2006 - 2010) phát triển hiệu quả nghề nuôi cá nước lạnh, từ quy mô hộ gia đình đã vươn lên thành quy mô Doanh nghiệp tư nhân Thịnh Long với lợi nhuận thu về ổn định hàng năm trên dưới 100 triệu đồng/1.000 mét vuông.

31/07/2015
Tháo gỡ vướng mắc để chuỗi liên kết bền vững Tháo gỡ vướng mắc để chuỗi liên kết bền vững

Đề án Thí điểm tổ chức khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ cá ngừ theo chuỗi tại ba tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa hướng tới mục tiêu khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn lợi cá ngừ đại dương, hài hòa lợi ích cho các bên tham gia. Qua gần một năm triển khai, các chuỗi liên kết này đã đi vào hoạt động nhưng hiệu quả mang lại chưa cao.

31/07/2015