Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Lại Nói Về Quản Lý Chất Lượng Tôm Giống

Lại Nói Về Quản Lý Chất Lượng Tôm Giống
Ngày đăng: 12/04/2012

Quản lý tôm giống - yếu tố then chốt quyết định thành bại của mọi thành phần tham gia trong quy trình sản xuất tôm - đang có nhiều bất cập. Thông tin từ các Sở NN và PTNT cho thấy, từ đầu năm đến nay, tình hình bệnh trên tôm nuôi đang diễn ra rất phức tạp, tôm bị chết nhiều và chưa có dấu hiệu dừng lại.

Năm 2011, dịch bệnh đã “tàn phá” hơn 82.000 ha nuôi tôm, gây thiệt hại lớn cho cả người nuôi lẫn DN chế biến. Trên thực tế, đã xác định được một số nguyên nhân làm cho tôm nuôi bị chết, trong đó có chất lượng tôm giống thả nuôi không đạt yêu cầu. Qua đó cho thấy, vai trò không thể phủ nhận của con giống trong việc quyết định đến sự thành bại của nghề nuôi tôm và đã đến lúc vấn đề chất lượng giống cũng như công tác quản lý giống tôm nuôi cần được nhìn nhận một cách đúng mực.

Theo thống kê, năm 2011 cả nước có 656.426 ha nuôi tôm, trong đó 623.377 ha nuôi tôm sú và 33.049 ha nuôi tôm chân trắng. Tôm chân trắng mới được chính thức cho phép nuôi vài năm trở lại đây và nhiều địa phương đang có xu hướng đẩy mạnh nuôi tôm chân trắng, kéo theo nhu cầu đối với giống tôm chân trắng cũng tăng cao. Tuy nhiên, chất lượng tôm giống và khâu quản lý con giống đang cho thấy nhiều bất cập.

Hiện nay, nguồn cung tôm chân trắng bố mẹ đang phụ thuộc hoàn toàn vào NK, với các nguồn NK chủ yếu từ Thái Lan, Xingapo, Inđônêxia và Mỹ. Theo số liệu về tình hình cấp phép NK tôm chân trắng bố mẹ của Tổng cục Thủy sản, năm 2011 Tổng cục đã cấp phép NK 385.437 tôm chân trắng bố mẹ, trong đó 38% được cấp phép NK từ Thái Lan, 31,5% từ Xingapo, 11,3% từ Mỹ, 8,2% từ Inđônêxia và 11% từ các nguồn khác. Như vậy, NK từ Thái Lan và Xingapo chiếm tới 70% tổng NK tôm chân trắng bố mẹ trong năm 2011. Trong khi đó lại chưa có bất cứ cơ sở đánh giá nào về chất lượng nguồn cung, hỗ trợ cho việc lựa chọn nguồn tôm giống bố mẹ một cách tốt nhất (cả về giá và chất lượng con giống). Một DN sản xuất tôm giống hàng đầu ở Việt Nam cho biết, họ cũng chỉ dựa vào uy tín của bạn hàng và căn cứ trên tỷ lệ sống (sau khi về tới Việt Nam) và tỷ lệ sinh sản cao để lựa chọn nguồn cung cấp tôm bố mẹ.

Với số lượng tôm bố mẹ NK như vậy, theo tính toán, lượng PL12 tối đa có thể sản xuất từ nguồn tôm bố mẹ này ước đạt 18 tỷ con. Cũng trong năm qua, cả nước có 33.049 ha nuôi tôm chân trắng, nếu với mật độ thả giống trung bình 100 con/m2 thì số lượng PL cần có khoảng 33 tỷ. Như vậy, ngoài 18 tỷ PL được sản xuất từ nguồn tôm bố mẹ NK, không ai có thể nói chắc chắn về nguồn gốc xuất xứ và chất lượng của hơn 15 tỷ PL còn lại đã được thả nuôi. Và nếu ngay từ khâu thả giống cũng chỉ có khoảng hơn 50% lượng giống thả là có chất lượng thì làm sao có thể đảm bảo nuôi thành công và tránh được rủi ro dịch bệnh???

Xác định con giống là yếu tố quyết định sự thành bại trong việc nuôi tôm, đã có DN bỏ vốn lớn đầu tư vào sản xuất tôm giống phục vụ vùng nuôi của chính DN nhằm đáp ứng nhu cầu tôm nguyên liệu cho chế biến. Tuy nhiên, không phải DN nào cũng đủ lực để thực hiện và đa số DN hiện nay vẫn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tôm nguyên liệu từ các hộ nuôi riêng biệt.

Đồng thời, thực tế cho thấy các DN chế biến - khâu cuối trong quy trình sản xuất tôm - đang phải chịu nhiều tổn thất chính từ yếu tố đầu vào là con giống. Năm qua, nhiều DN XK sang Nhật Bản lao đao vì tôm nhiễm kháng sinh cấm do người nuôi tôm đã sử dụng chúng trong quá trình nuôi. Tuy nhiên, với thực trạng tôm giống như hiện nay (chất lượng tốt, xấu pha trộn, không rõ xuất xứ, tỷ lệ cận huyết cao...) dẫn tới khả năng nhiễm bệnh cao thì khả năng sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm là điều khó tránh khỏi!

Trước thực trạng tôm chết hàng loạt như trong năm 2011 và trong vụ nuôi đầu năm nay, thiết nghĩ cơ quan quản lý nhà nước cần đánh giá lại chất lượng nguồn tôm giống bố mẹ; theo dõi, giám sát và thống kê việc NK tôm giống bố mẹ (tỷ lệ hao hụt sau khi về tới Việt Nam, lượng tôm đã nhập...); kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các cơ sở sản xuất giống, tạo cơ sở cho việc truy xuất nguồn gốc tôm giống, đảm bảo người nuôi có được nguồn giống tốt với giá thích hợp.

Nếu tôm giống được kiểm soát và truy xuất nguồn gốc dễ dàng, chắc chắn nhiều vấn đề mà ngành tôm đang phải đối mặt sẽ được tháo gỡ và theo đó, nghề nuôi tôm sẽ có thêm những cơ hội phát triển bền vững.

Có thể bạn quan tâm

Sản Lượng Khai Thác Thủy Sản Huyện Quảng Xương (Thanh Hoá) Ước Đạt 8.749 Tấn Sản Lượng Khai Thác Thủy Sản Huyện Quảng Xương (Thanh Hoá) Ước Đạt 8.749 Tấn

6 tháng đầu năm 2014, tổng sản lượng khai thác thủy sản của huyện Quảng Xương ước đạt 8.749 tấn, tăng 3% so với cùng kỳ, bằng 52,1% kế hoạch; sản lượng chế biến đông lạnh đạt 90.000 tấn, sản phẩm khô 7.500 tấn, nước mắm 8.400 lít, sản phẩm dạng mắm đạt 700 tấn. Tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 2.367 tấn, tăng 25% so với cùng kỳ, đạt 56,4% kế hoạch.

22/07/2014
Thái Bình Nuôi Trồng Thủy Sản 6 Tháng Đầu Năm Những Tín Hiệu Vui Thái Bình Nuôi Trồng Thủy Sản 6 Tháng Đầu Năm Những Tín Hiệu Vui

Theo Chi cục Nuôi trồng thủy sản (NTTS), tổng diện tích nuôi trồng thủy sản trên địa bàn toàn tỉnh Thái Bình 6 tháng đầu năm 2014 ước đạt 14.462 ha, tổng sản lượng nuôi trồng ước đạt 47.890 tấn, tăng 1.778 tấn (3,86%) so với cùng kỳ năm 2013; giá trị sản xuất ước đạt 1.034 tỷ đồng, tăng 38.2 tỷ đồng (3,83%) so với cùng kỳ năm 2013.

22/07/2014
Ngư Dân Mỹ Á Vào Vụ Ruốc Ngư Dân Mỹ Á Vào Vụ Ruốc

Mùa ruốc bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 âm lịch. Khi những con ruốc theo con sóng ngoài khơi trôi vào bờ, cũng là lúc bà con ngư dân vùng biển bắt đầu một mùa ruốc. Người khiến ruốc vào bờ, người cân ruốc, người phơi ruốc tạo nên không khí đông vui tấp nập tại vùng biển Mỹ Á trong những ngày qua. Theo các ngư dân, địa điểm đánh bắt là vùng bãi ngang cách bờ 100m, kéo dài 2km.

08/12/2014
Khôi Phục Và Phát Triển Nghề Nuôi Thả Cánh Kiến Đỏ Tại Mường Lát Khôi Phục Và Phát Triển Nghề Nuôi Thả Cánh Kiến Đỏ Tại Mường Lát

Nhựa cánh kiến đỏ (CKĐ) là sản phẩm được tiết ra từ một loại côn trùng sống tập trung ký sinh trên một số loài cây chủ ngắn ngày và dài ngày. Ngày nay, nhựa CKĐ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực công nghiệp và đặc biệt là làm chất phụ gia trong sản xuất bao bì tự hủy – một loại sản phẩm thân thiện với môi trường thay thế cho bao bì bằng polyetylen.

22/07/2014
Xã Cán Khê Đẩy Mạnh Phát Triển Kinh Tế Đồi Rừng Xã Cán Khê Đẩy Mạnh Phát Triển Kinh Tế Đồi Rừng

Theo chân cán bộ xã đến thăm mô hình kinh tế đồi rừng của gia đình anh Cầm Tổng Đồng, ở thôn 7, được biết: Trước đây, kinh tế gia đình rất khó khăn, thuộc hộ nghèo của xã. Năm 2007, gia đình anh đã mạnh dạn nhận 2 ha đồi rừng, trong đó đầu tư trồng 1,5 ha cây keo, diện tích còn lại trồng cây nghệ, chanh, đồng thời chăn nuôi thêm lợn, gà, mỗi năm trừ chi phí gia đình anh thu lãi gần 100 triệu đồng.

08/12/2014