Kỹ Thuật Trồng Rong Nho Trên Vỉ

Cách đây 10 năm, một số người dân tại thôn Đông Hà, phường Ninh Hải, thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa) đã đưa giống rong nho từ Nhật Bản về trồng thử nghiệm tại địa phương. Từ đó đến nay giống cây này không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành sản phẩm xuất khẩu cho thu nhập cao.
Để mô hình này ngày càng phát triển hơn nữa, mới đây đoàn khối các cơ quan tỉnh, phối hợp với đoàn cơ sở Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh tổ chức chuyển giao kỹ thuật trồng rong nho trên vỉ cho người dân địa phương. Kỹ thuật này sẽ cho năng suất và chất lượng cao hơn so với phương pháp trồng đáy như trước đây.
Từ trước đến nay, người dân trồng rong nho ở phường Ninh Hải, thị xã Ninh Hòa chủ yếu trồng rong trực tiếp xuống đáy ao đìa. Với phương pháp này, cây bám rễ xuống đất nên khi mưa lớn hay nhiệt độ thay đổi, cây rong dễ chết. Bên cạnh đó, phương pháp này khá tốn công sức và thời gian trong việc thu hoạch và cải tạo.
Với phương pháp trồng rong trên vỉ, hầu như những nhược điểm này đã được khắc phục. Rong nho trồng trong vỉ vẫn hấp thu tốt chất dinh dưỡng từ đáy ao, thuận lợi trong thu hoạch vì có thể đưa từng vỉ lên bờ, khi gặp sự cố cũng có thể nhanh chóng chuyển các vỉ rong nho sang ao khác. Bên cạnh đó, cách làm này còn cho năng suất tăng gấp đôi so với trồng đáy, từ 65 đến 70 tấn/ha/năm.
Anh Đặng Ngọc Thoại – Người trồng rong nho phường Ninh Hải, TX Ninh Hòa chia sẻ trước kia anh không có vốn, chỉ đầu tư trồng đáy nên 1 ha hái 1 tuần khoảng 2 tấn. Còn bây giờ đầu tư vỉ gần 2 tháng nay một tuần được 3 tấn, hơn 1 tấn trong vòng 1 tuần so với phương pháp trước.
Ông Huỳnh Kim Khánh – Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản Khánh Hòa cho biết với phương pháp trồng trên vỉ nông dân có thể cơ động. Khi nhiệt độ ở đáy ao cao thì có thể nâng vỉ lên cao hơn đáy, khi mưa lớn, độ mặn thấp thì có thể di chuyển qua ao khác để tăng độ mặn để đảm bảo nguồn giống. Do đó, trồng trên vỉ thì chủ động hơn về sản xuất cũng như lưu giữ giống qua vụ mùa sau.
Áp dụng phương pháp trồng trên vỉ thì chỉ sau khoảng 20 ngày có thể tiến hành thu hoạch, nhanh hơn trồng đáy khoảng 25 ngày. Tuy nhiên quy trình trồng rong nho trên vỉ đòi hỏi chi phí đầu tư cao hơn, bình quân khoảng 250 nghìn đồng/vỉ. Vì vậy, trong đợt chuyển giao kỹ thuật lần này, các đoàn viên, thanh niên còn hỗ trợ 4 hộ dân, mỗi hộ 4000 vỉ/1ha; với 100% tiền giống và 30% tiền vật tư.
Hiện nay rong nho tiêu thụ chủ yếu xuất khẩu đi các nước Nhật Bản, Đài Loan và một số tỉnh thành lớn trong cả nước. Với các lợi thế vượt trội so với trồng đáy như năng suất cao, chất lượng rong tốt, dễ dàng di chuyển vỉ rong nên thuận tiện trong thu hoạch và bảo quản giống, hy vọng trong thời gian tới, phương pháp trồng rong trên vỉ sẽ tiếp tục được nhân rộng, góp phần nâng cao năng suất và thu nhập cho nhiều hộ dân.
Có thể bạn quan tâm

Với tổng kinh phí gần 360 triệu đồng, tháng 5/2014, Trạm Khuyến nông – Khuyến ngư thị xã đã đưa vào trồng thử nghiệm 6ha, trong đó: 3ha lúa chịu hạn PT13 và 3ha trồng các loại cây họ đậu cải tạo đất (đậu mèo, đậu triều, đậu nho nhe). 201 hộ dân tham gia mô hình được hỗ trợ 100% giống, phân bón và kỹ thuật chăm sóc. Sau hơn 4 tháng đưa vào trồng thử nghiệm, đến nay diện tích trồng lúa chịu hạn đã cho thu hoạch với năng suất ước đạt 35 – 40 tạ/ha.

Viện Khoa học - kỹ thuật nông nghiệp miền Nam phối hợp với Phòng Kinh tế huyện Trảng Bom vừa tổ chức kiểm tra mô hình sản xuất và ứng dụng phân hữu cơ vi sinh quy mô nông hộ phục vụ canh tác cây hồ tiêu và cà phê theo hướng bền vững tại 2 xã Thanh Bình và Cây Gáo.

Cá lăng là một trong những đặc sản của sông Đồng Nai. Khi nghề nuôi cá lăng mới rộ, nhiều nông dân thu lãi tiền tỷ. Năm nay, tuy các bè nuôi cá trúng về sản lượng nhưng đã qua thời lãi “khủng” vì loại đặc sản này ngày càng mất giá.

Khoảng gần 3 tuần qua, bà con trồng rau màu thuộc 2 xã Mỹ An Hưng A và Mỹ An Hưng B, huyện Lấp Vò thấp thỏm vì giá rau màu liên tục giảm. Nguyên nhân giảm do lượng hàng cung đang áp đảo nhu cầu của thị trường.

Diện tích liên kết sản xuất từng bước mở rộng, đa số các doanh nghiệp tham gia liên kết đều có cung ứng đầu vào cho nông dân, tạo sự ràng buộc hơn giữa các bên tham gia liên kết, giúp người nông dân ổn định đầu ra, an tâm sản xuất, góp phần tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích”.