Kinh Nghiệm Nuôi Tôm He Chân Trắng Ở Trung Quốc

1. Các kết quả thí nghiệm đều cho rằng tôm he chân trắng là một đối tượng nuôi rất có triển vọng phát triển do các đặc điểm sau :
- Thời vụ nuôi dài, có thể nuôi quanh năm ở vùng biển tỉnh Quảng Ðông.
- Thích nghi tốt với vùng biển có độ mặn cao, ở 18-22%o tôm vẫn lớn rất nhanh, tôm sú ở độ mặn cao lớn tương đối chậm.
- Có sức chịu đựng tốt với sự thay đổi các yếu tố môi trường nên việc quản lí môi trường tương đối dễ dàng.
- Sức chống bệnh tốt, trong điều kiện nuôi thâm canh có thể đạt tỉ lệ sống trên 70%.
- Nuôi giai đoạn đầu lớn rất nhanh, nuôi thâm canh trong vòng 80 ngày có thể đạt cỡ thương phẩm 60-70 con/kg.
2. Trong quá trình nuôi phát hiện thấy tôm he chân trắng ăn cả mảnh vụn thực vật và mùn bã hữu cơ, vì thế nên lấy mức cho ăn hết trong 1 giờ làm chuẩn để định lượng cho ăn. Ngoài ra, nên định kì bón thêm vi khuẩn quang hợp và các chế phẩm vi sinh có ích khác để chúng biến các sản phẩm hữu cơ và vật chất có hại trong ao thành thức ăn tốt cho tôm, giảm hệ số thức ăn xuống dưới 1,4 vừa hạ giá thành nuôi, vừa tạo môi trường cho tôm sinh trưởng tốt.
3. Nắm vững thời gian thay nước thích hợp trong quá trình nuôi là rất quan trọng.
Thời gian thay nước chủ yếu dựa vào kết quả theo dõi phân tích các tiêu chuẩn chất nước. Cần có quan điểm quản lí chất nước thật biện chứng, ngay trong thời kì chất nước tốt nhất cũng vẫn tiềm ẩn các nhân tố có hại, theo sự chuyển dịch của thời gian, các vật chất có hại từ lượng biến sang chất tích luỹ đến một lúc nào đó sẽ làm cho chất nước bị xấu thậm chí rất đột biến đến nỗi không kịp thay nước, vi sinh vật có hại sẽ phát triển nhiều gây bất lợi cho tôm. Vì vậy ngay trong thời kì chất nước còn tốt vẫn phải thay nước ở mức độ thích hợp.
4. Tôm he chân trắng là loài tôm biển nuôi được trong nước ngọt, là đột phá lớn về kĩ thuật có ý nghĩa to lớn, phát triển nuôi rộng rãi trong nước ngọt sẽ có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế nghề cá nội địa, đồng thời tạo ra cơ hội để phát triển sản xuất tôm giống ở khu vực ven biển.
5. Tạo môi trường sinh thái tốt trong ao nuôi là đảm bảo mạnh cho nuôi tôm đạt năng suất hiệu quả cao. Nuôi cấy các vi sinh vật có ích trong ao trước khi thả tôm giống có tác dụng làm giảm hàm lượng đạm NH3 có hại, giữ pH ổn định và làm giảm các vi khuẩn gây bệnh.
6. Lấy phòng bệnh là chính làm phương châm cơ bản trong phòng trị bệnh tôm
Thế giới hiện nay chưa có các loại thuốc đặc hiệu chữa bệnh virut cho tôm. Vì thế suốt quá trình nuôi phải thực hiện tốt nguyên tắc phòng bệnh là chính, phải coi trọng tất cả mọi khâu từ tẩy dọn, khử trùng ao, cấp nước vào ao, thả giống, cho ăn, quản lí chất lượng nước mỗi khâu đều phải lấy phòng bệnh là chính
Có thể bạn quan tâm

Vụ nuôi tôm sú, tôm chân trắng năm 2010 đa số người dân đều có lãi do giá tôm thương phẩm ở mức cao. Đây là tín hiệu vui và là động lực giúp cho người nuôi tôm sẽ tích cực đầu tư, cải tạo ao đầm, chuẩn bị cho vụ nuôi năm 2011.

Bệnh phát sáng xuất hiện quanh năm trên các loài tôm sú, thẻ, càng xanh... Bệnh có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn ương nuôi từ trứng đến tôm trưởng thành.

Ở tôm sú, bệnh thường hay gặp nhất, khó ngăn ngừa và điều trị là bệnh thân đỏ đốm trắng. Theo các công trình nghiên cứu, tất cả các giai đoạn phát triển của tôm đều có thể nhiễm bệnh này. Giai đoạn phát triển mạnh nhất là từ tháng nuôi đầu tiên đến tháng nuôi thứ hai trong ao nuôi tôm thịt.

Tính từ đầu năm 2011 đến nay, tình hình dịch bệnh tôm biển nuôi thâm canh, bán thâm canh đang diễn biến phức tạp với tần suất ngày càng cao đã gây thiệt hại nặng nề cho người dân nuôi tôm trên 3 huyện ven biển: Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú.

Tôm rằn (Penaeus semisulcatus) là loài tôm có kích thước lớn, thích ứng với nhiệt độ cao, độ mặn cao, ăn tạp, có giá trị kinh tế như tôm sú cùng cỡ và là một trong số 110 loài thuộc họ tôm he (Penaeidae) (theo FAO).