Kinh Nghiệm Bón Phân Cho Lúa Để Hạn Chế Bệnh Bạc Lá, Đốm Sọc Vi Khuẩn Trong Vụ Mùa

Đại đa số các giống lúa thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng đang gieo cấy phổ biến hiện nay đều có nguồn gốc từ Trung Quốc, không mang gen kháng vi khuẩn bạc lá Xa. Do vậy, khi phát triển các giống lúa này trong điều kiện vụ mùa ở các tỉnh phía bắc nước ta thì hầu hết các giống lúa trên đã bị nhiễm bạc lá vi khuẩn, gây tổn hại không nhỏ đến năng suất và chất lượng lúa mùa.
Như chúng ta đã biết, bệnh bạc lá lúa là do các chủng vi khuẩn Xanthomonas gây nên. Do vậy, nếu cây lúa đã bị nhiễm bệnh thì khó lòng chữa khỏi. Môi trường thuận lợi cho vi khuẩn tấn công vào cây lúa là 2 nguyên nhân chính: Nội tại cây lúa (thân lá mềm, mỏng dễ bị xây xát, rách tướp) và điều kiện ngoại cảnh (có mưa giông, bão lũ làm xây xát, rách lá).
Vì vậy, muốn hạn chế một cách tối đa vi khuẩn bạc lá lúa thì việc bón phân cân đối sao cho nội tại cây lúa không thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập là việc làm cần thiết cho người nông dân. Xin chia sẻ kinh nghiệm cách bón phân cho lúa của bà con nông dân Nam Sách - Hải Dương để hạn chế bệnh bạc lá vi khuẩn gây ra trong vụ mùa hàng năm như sau:
Ngay từ đầu vụ, để cây lúa không bị ngộ độc hữu cơ ở giai đoạn giữa vụ do gốc rạ phân hủy cần bón 15- 20kg vôi ta/sào. Làm đất phải đủ ngấu để cây lúa không bị ngẹt rễ giai đoạn còn non.
Về phân bón: Nên sử dụng chủ yếu các loại phân hỗn hợp (NPK) để bón, nhất là các loại phân có hàm lượng kali cao. Khi dùng các loại phân đơn (đạm urê, supe lân, kali) nếu bón với tỷ lệ không hợp lý, nhất là thời kì đẻ nhánh và sau đẻ nhánh rộ, thừa đạm lúa sẽ có nguy cơ nhiễm vi khuẩn bạc lá rất cao do lá lúa mỏng, dễ bị rách nát do va đập .
Với các loại phân này cần bón lót đủ, thúc đẻ sớm và tập trung, đón đòng đúng thời điểm. Cụ thể: Cần bón đúng liều lựơng và bón theo hướng dẫn của từng loại (căn cứ vào các quy trình bón của mỗi công ty). Dùng NPK để bón thúc đòng nên chọn hình thức bón đón đòng (bón lúa lúa đứng cái) chứ không nên bón nuôi đòng (lúa cứt gián). Vì các loại phân này do trong quá trình sản xuất được ép nén thành viên nên khả năng hòa tan, phân giải của phân chậm hơn phân đơn.
* Đối với những hộ có trình độ thâm canh cao thì có thể áp dụng cách bón như sau:
- Bón lót: Dùng NPK 5:10:3 (25-30 kg/sàoBB) bón vùi phân vào đất khoảng 5- 6cm (lúc cày bừa lần cuối).
- Thúc đẻ sớm: Bón khoảng 3- 3,5 kg đạm urê + 2kg kali/sào (vào lúc cây lúa có khoảng 3,5 – 4 lá thật - lúa bắt đầu đẻ đối với gieo thẳng và cấy mạ sân, hoặc lúa bén rễ hồi xanh đối với lúa cấy mạ dược).
Thúc đòng: Dùng 2-3 kg kali/sào (nếu lúa vàng lá gừng cần bón thêm 0,7- 1,0 kg đạm urê).
* Chú ý: Cần ưu tiên bón kali cao cho các giống hay bị nhiễm bạc lá. Các chân ruộng thuộc loại bùn hẩu cần giảm đạm, tăng kali cho cây cứng, lá dày đỡ bị bạc lá cuối vụ.
Ngoài việc bón phân cân đối như trên, các chân vàn và vàn cao cần điều tiết nước hợp lí cho lúa phát triển thuận lợi: Tháo cạn nước để mùn giun đùn lên khi cây lúa sắp bước vào quá trình đẻ nhánh. Duy trì mức nước 3-5cm đến khi lúa đẻ được từ 300- 350 dảnh/m2, rút cạn nước để nẻ nứt chân chim giúp cây lúa cứng, khỏe, bộ rễ ăn sâu, chống đổ tốt khi gặp giông bão vụ mùa. Khi lúa bắt đầu có cứt gián (lúa làm đòng) đưa nước lại ruộng và duy trì mức nước 4- 6cm đến lúc lúa trổ thoát và chắc hạt.
Khi lúa đỏ đuôi, tháo kiệt nước đến lúc gặt.
Thường xuyên thăm đồng và theo dõi tình hình phát sinh phát triển của các loài sâu bệnh để phòng trừ kịp thời. Phòng ngừa bệnh bạc lá vi khuẩn cần theo dõi các chương trình dự báo thời tiết diễn biến trong các ngày tới, tiến hành phun thuốc phòng bệnh bằng các loại thuốc như: Thysan, Antracol, Xanthomic, nước vôi trong trước hoặc sau các trận mưa giông, gió bão.
Đồng thời, ưu tiên phát triển nhiều trà lúa mùa sớm nhất là các giống lúa chất lượng có thời gian sinh trưởng ngắn ngày để né được bệnh bạc lá do vi khuẩn gây nên góp phần giải phóng đất được sớm để phát triển các cây rau màu vụ đông trên các chân ruộng trong cơ cấu luân canh 3- 4 vụ/năm.
Có thể bạn quan tâm

ĐBSCL đang bước vào thu hoạch lúa đông xuân và đang chuẩn bị xuống giống vụ xuân hè. Ở những vùng có đê bao, chủ động bơm tưới nước thường làm 3 vụ/năm, vì thế lịch thời vụ rất khẩn trương. Thường là sau khi thu hoạch lúa đông xuân, đa số nông dân đốt đồng và dùng ngay lúa mới thu hoạch (vì vụ này ít người có hạt giống cũ) để làm giống sạ cho vụ mới, trong đó có nhiều người sạ chui (đốt đồng, không xới đất) nên từ khi thu hoạch đến khi xuống giống vụ mới chưa tới 10 ngày.

Đến nay, nông dân TP Cần Thơ đã xuống giống được hơn 55.800 ha lúa thu đông 2012. Các trà lúa đang trong giai đoạn mạ, đẻ nhánh đến làm đòng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của một số loại dịch bệnh hại lúa, nhất là bệnh đạo ôn, đã và đang đe dọa làm giảm năng suất lúa trong vụ thu đông này…

Vụ đông xuân tại các tỉnh miền núi phía Bắc thường phải đối diện với thời tiết rét đậm, rét hại khiến nhiều diện tích mạ và lúa mới cấy bị chết.

- Trứng rầy nâu có dạng ”quả chuối tiêu”, mới đẻ trong suốt, gần nở chuyển màu vàng và có hai điểm mắt đỏ. Trứng rầy nâu đẻ thành từng ổ từ 5-12 quả nằm sát nhau theo kiểu ”úp thìa”, đầu nhỏ quay vào trong, đầu to quay ra ngoài biểu bì ngoài của bẹ lá. - Rầy non rất linh hoạt, mới nở có màu xám trắng, tuổi 2-3 trở lên có màu nâu vàng, trong điều kiện mật độ cao có màu nâu sẫm.

Thực hiện tốt các khâu kỹ thuật ngâm ủ hạt giống sẽ có tỷ lệ nảy mầm cao, loại bỏ được một số loại bệnh hại và kí sinh trên hạt