Kiểm soát thuốc BVTV không chỉ là mệnh lệnh hành chính

Muốn giữ được thị trường nội địa và tìm cách xuất khẩu, chất lượng rau, quả phải giữ được niềm tin của người tiêu dùng, bắt đầu từ việc hạn chế tồn dư thuốc BVTV.
Thận trọng với chất lượng rau, quả tươi
Chị Nguyễn Huyền Trân, Hà Đông, Hà Nội cho biết: “Ngày xưa cứ trái chín cây bứt xuống là ăn, xấu xí một chút nhưng an tâm.
Giờ rau, củ cứ xanh non mơn mởn, nhìn càng đẹp mã càng lo phun thuốc.
Như ở nhà tôi mua rau, củ về thường không mấy khi ăn luôn mà để 1,2 ngày, coi như trừ thêm ngày lượng tồn dư hóa chất giảm bớt đi cho an toàn rồi mới chế biến và ăn”.
Khác với chị Trân, chị Đoàn Kim Hoa, Cầu Giấy, Hà Nội lại có cách lựa chọn riêng.
Chị Hoa làm tại tổ Công đoàn của một nhà máy lớn.
Khi lo bếp ăn tập thể tại công ty, chị đã tìm nguồn thực phẩm được cung cấp từ quê của chính các đồng nghiệp mình.
Chị Hoa cho rằng, bây giờ có nhiều sản phẩm dán tem mác đàng hoàng nhưng để “bắt đền” được đơn vị sản xuất khi sản phẩm không đảm bảo an toàn thực phẩm rất khó và mất thời gian.
Tuy nhiên, nếu sử dụng nguồn sản phẩm từ chính cán bộ, công nhân viên của công ty thì họ sẽ có trách nhiệm với các sản phẩm của mình bán cho tập thể…
“Làm như thế một công đôi việc, anh em trong công ty vừa có thêm thu nhập mà mình cũng yên tâm hơn về chất lượng thực phẩm”, chị Hoa cho biết.
Cách làm của chị Trân, chị Hoa và của nhiều bà nội trợ khác đều có chung một lý do là trước những thông tin đa chiều về dư lượng thuốc BVTV còn tồn lại trong rau, củ, quả sau khi thu hoạch khiến người dân ngày càng thận trọng hơn trong sử dụng thực phẩm tươi sống.
Kiểm soát chặt từ trong nước
Theo ông Nguyễn Xuân Hồng Cục trưởng Cục BVTV (Bộ NN&PTNT), việc kiểm soát tốt tồn dư chất BVTV trên rau, quả sẽ giúp chúng ta giữ được thị trường trong nước và hướng đến XK trong thời gian tới.
Và đây không phải là lý thuyết.
Thực tế mới đây khi chúng ta kiểm soát tốt chất lượng xoài Cát Chu, Nhật Bản - một thị trường khó tính về an toàn thực phẩm đã đón nhận khá tốt và có ngay các đơn hàng tiếp theo.
Nói kỹ hơn về chất lượng thực phẩm của Nhật Bản có thể dẫn chứng qua câu chuyện của anh Trần Minh Tuấn, Quận 3, TPHCM, là du học sinh tại Nhật Bản nhiều năm.
Anh Tuấn kể, người Nhật dù rất thích hoa trái nhưng hoa trái trong vườn nhà hiếm khi người dân hái vào để ăn bởi họ cho rằng chất lượng nước và không khí trong vườn nhà không được kiểm soát chuyên nghiệp nên dù tẩy, rửa thế nào cũng không đảm bảo bằng sản phẩm bán tại các siêu thị thực phẩm.
Còn tại các siêu thị thực phẩm thì trên các nhãn hàng luôn để sẵn nhiều mức giá khác nhau, qua mỗi giờ tùy vào các sản phẩm (thịt, cá, rau, củ, quả…) lại được giảm giá dần theo độ tươi ngon.
Quay trở về thị trường thuốc BVTV tại Việt Nam, đây là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, không khuyến khích kinh doanh.
Các đơn vị làm khuyến nông cũng thường tuyên truyền cho người nông dân càng hạn chế dùng thuốc BVTV có độ độc cao càng tốt, trước chính là để bảo vệ môi trường và sức khỏe giống nòi cho dân tộc, sau là tạo tiền đề để nông sản có chất lượng, bán được giá cao.
Theo ông Nguyễn Xuân Hồng, hiện trong danh sách quản lí của Cục BVTV có khoảng 1.600 hoạt chất cộng hỗn hợp hoạt chất thuốc BVTV với khoảng 4.100 tên thương phẩm.
Trong Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật mới được Quốc hội thông qua, Cục BVTV cũng đã đưa vào một loạt điều khoản, yêu cầu nhằm siết chặt và hạn chế việc kinh doanh, sử dụng thuốc BVTV.
Theo đó, những hoạt chất thuốc nhóm 1, 2 của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và 3, 4 theo tiêu chuẩn quốc tế (GHF) có độ độc cao đều bị loại ra khỏi danh mục được kinh doanh.
Đặc biệt, với những cây trồng ăn trực tiếp và có nguy cơ cao như rau, cây ăn quả hay chè, từ năm 2014 đến nay, Cục BVTV sau khi nghiên cứu, rà soát kỹ lưỡng đã rút gọn hoạt chất thuốc BVTV dành cho những loại cây trồng này xuống mức tối thiểu và theo hướng thuốc sinh học là chính.
Những nỗ lực kiểm soát việc sử dụng và kinh doanh thuốc BVTV đến nay không còn là mệnh lệnh hành chính.
Mệnh lệnh hành chính có thể chỉ thực hiện với mục đích tạo tác động tích cực với xã hội nhưng đến thời điểm này, việc kiểm soát này đã là yêu cầu của thời cuộc, của thị trường chung rộng lớn với sự đón nhận và đào thải từ chính người dân, người tiêu dùng nhiều nước.
Có thể bạn quan tâm

Hiện nay, sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam đã có mặt trên 100 thị trường nước ngoài. Những thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam (chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ) là Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc và Nhật Bản. Năm 2013, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất ASEAN, đứng thứ hai tại châu Á và thứ 6 trên thế giới với kim ngạch đạt trên 5,5 tỷ USD.

Mô hình chợ thí điểm bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) tại chợ Hà Vị, TP. Bắc Giang” được coi là mô hình chợ an toàn đầu tiên trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.

Ông Nguyễn Tiến Từ - Chủ tịch UBND xã Phong Hải chia sẻ kinh nghiệm tổ chức, quản lý quy hoạch, sản xuất vùng nuôi tôm trên cát của địa phương tại Diễn đàn KN @ NN "Phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng công nghiệp theo hướng an toàn, bền vững ở vùng cát ven biển các tỉnh miền Trung” do Trung tâm Khuyến nông Quốc gia tổ chức.

Chuyến ra khơi này tàu làm dịch vụ hậu cần, chuyên cung cấp nhiên liệu, nhu yếu phẩm và thu mua hải sản cho ngư dân. Tàu vận chuyển 17.000 lít dầu, trên 1.000 cây đá, 7.000 khay đựng cá…, tổng giá trị chuyến ra khơi trên 300 triệu đồng. Sau chuyến biển đầu tiên này, tàu SANG FISH 01 sẽ ra khơi để đánh bắt hải sản kiêm công tác dịch vụ hậu cần cho bà con ngư dân.

Mô hình được thực hiện trên quy mô 1.200 m2 tại hộ gia đình nhà ông Nguyễn Kiên Quyết, xóm 5B. Các loại cá được thả là: rô phi đơn tính, trắm cỏ, mè, chép, trôi; kích cỡ giống thả từ 5-12 cm; mật độ 3 con/m2; số lượng giống 3.600 con.