Không Có Chuyện Cấp Phép Kiểm Dịch 40 Nghìn Tấn Mật Ong Trong 6 Năm

Việc phản ánh của bà Nguyễn Thị Hằng là không có cơ sở và chỉ dựa vào quy định số lượng 200 kg để suy diễn ra.
* Suy diễn không có căn cứ của Hội Nuôi ong Việt Nam
Tại Diễn đàn doanh nghiệp của Bộ NN-PTNT tổ chức vào ngày 15/10/2014, Hội Nuôi ong Việt Nam đã nêu những bức xúc trong việc kiểm dịch mật ong và ong mật, phải cấp giấy phép kiểm dịch cho 40 nghìn tấn mật ong với thời gian 6 năm và mỗi giấy phép chỉ có thời hạn 1 ngày.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 23 của Pháp lệnh Thú y năm 2004: Động vật, sản phẩm động vật khi vận chuyển với số lượng, khối lượng lớn ra khỏi huyện phải được kiểm dịch một lần tại nơi xuất phát.
Căn cứ quy định của Pháp lệnh Thú y, Bộ NN-PTNT đã ban hành Quyết định số 47/QĐ-BNN ngày 25/7/2005 quy định cụ thể số lượng động vật, khối lượng sản phẩm động vật phải kiểm dịch khi vận chuyển ra khỏi huyện. Tại quyết định này có quy định khi vận chuyển trên 50 đàn ong mật và trên 200 kg mật ong ra khỏi huyện mới phải kiểm dịch.
Quy định này cũng phù hợp để truy xuất nguồn gốc, phát hiện nguy cơ để có biện pháp xử lý dịch bệnh kịp thời và quy định này đã thông báo cho các nước có nhu cầu nhập khẩu sản phẩm mật ong từ VN. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho VN xuất khẩu được sản phẩm mật ong sang các nước.
Chính vì vậy, cuối năm 2012 Ủy ban An toàn thực phẩm châu Âu đã cho phép mật ong của VN xuất vào thị trường này, và các nước khác cũng nhập khẩu mật ong từ VN tăng lên. Kết quả năm 2013, VN đã xuất trên 40 nghìn tấn mật ong sang các nước (gấp đôi so với năm 2012) và 9 tháng đầu năm 2014 đã XK được trên 40 nghìn tấn mật ong sang châu Âu và các nước khác.
Ngay sau khi có thông tin từ Hội Nuôi ong Việt Nam nêu tại hội nghị, ngày 16/10 Cục Thú y đã gửi công văn cho Hội Nuôi ong VN đề nghị cung cấp thông tin cụ thể xem tỉnh nào, trạm kiểm dịch động vật nào cấp phép vận chuyển mật ong chỉ có một ngày, gây phiền hà cho DN để xem xét, phối hợp xử lý theo quy định? Tuy nhiên cho đến nay Cục Thú y vẫn chưa nhận được thông tin phản hồi.
Cũng trong ngày 16/10, Cục Thú y đã gửi công văn cho 63 tỉnh, thành đề nghị báo cáo cụ thể về số lượng đàn ong, mật ong đã thực hiện kiểm dịch vận chuyển trong năm 2014.
Theo báo cáo của các Chi cục Thú y: Đối với việc kiểm dịch vận chuyển ong mật: Trong năm 2014 chỉ có khoảng 12 tỉnh nuôi ong trọng điểm ở vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên thực hiện việc kiểm dịch vận chuyển ong mật từ tỉnh này sang tỉnh khác, với số lượng hơn 400 nghìn đàn ong trên tổng số gần 3 triệu đàn và mỗi lần vận chuyển khoảng 300 đàn ong/lần. Như vậy cơ quan thú y địa phương chỉ cấp khoảng 130 giấy chứng nhận kiểm dịch để vận chuyển ong mật từ tỉnh này sang tỉnh khác;
Đối với việc kiểm dịch vận chuyển mật ong: Duy nhất chỉ có 2 tỉnh (Đăk Lăk và Gia Lai) thực hiện việc kiểm dịch vận chuyển mật ong với số lượng hơn 6 nghìn tấn mật ong từ đầu năm đến nay, đồng thời chỉ cấp khoảng 600 giấy chứng nhận kiểm dịch vận chuyển mật ong từ các tỉnh này đến các nhà máy chế biến mật ong ở tỉnh Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai… để chế biến XK (bình quân khoảng 10 tấn mật ong/lô hàng và chỉ cấp 1 giấy chứng nhận kiểm dịch vận chuyển); không phải là cấp giấy phép vận chuyển và chỉ cấp có 200 kg/giấy chứng nhận kiểm dịch, với thời hạn 1 ngày như phát biểu của bà Nguyễn Thị Hằng, Phó Chủ tịch Hội Nuôi ong Việt Nam nêu tại hội nghị.
Còn đối với các tỉnh khác không thực hiện việc kiểm dịch vận chuyển mật ong, vì các DN cũng không khai báo đăng ký kiểm dịch với các cơ quan thú y địa phương.
Như vậy, việc phản ánh của bà Nguyễn Thị Hằng là không có cơ sở và chỉ dựa vào quy định số lượng 200 kg để suy diễn ra hàng trăm nghìn giấy chứng nhận kiểm dịch phải cấp và thời gian cấp giấy chứng nhận kiểm dịch phải mất tới 6 năm, trong khi đó từ đầu năm đến nay đã XK sang các nước được trên 40 nghìn tấn mật ong.
Có thể bạn quan tâm

Nếu lấy mốc thời gian năm 1996 (thời điểm Công ty Agifish xuất khẩu container cá basa đầu tiên vào thị trường Mỹ) để đề cập đến quá trình phát triển của một sản phẩm quốc gia thì đến nay, nghề nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu ở ĐBSCL đã “ngót nghét” gần 20 năm. Trong quãng thời gian ấy, có hàng chục ngàn người làm giàu một cách nhanh chóng, nhà máy chế biến thủy sản ra đời như “nấm mọc sau mưa”.

Từ chỗ toàn ngành chỉ XK được 11 triệu USD, không đủ cho việc nhập vật tư thiết bị cho SX trong nước, đến nay đã XK khoảng 6,5 tỷ USD; từ chỗ cả ngành nuôi trồng và khai thác thủy sản chỉ cung cấp được 600.000 tấn thủy hải sản cho nhu cầu tiêu dùng nội địa, đến nay đã SX trên 3 triệu tấn.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông lâm ngư (KNLN) Thừa Thiên Huế Bùi Thị Hải Yến cho biết, gần đây đơn vị thực hiện nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản xen ghép mang lại hiệu quả khả quan. Mô hình nuôi tôm sú-rong câu trong ao nước lợ thực hiện thí điểm trong năm 2014 mang lại kết quả như mong đợi. Ưu điểm của mô hình là giãn khoảng cách vụ nuôi, tác động tương hỗ giữa thực vật (rong biển) và động vật (tôm) đến môi trường, hạn chế tối đa dịch bệnh và mang lại lợi nhuận cao.

Theo thông báo của Tổng cục Quản lý Vệ sinh, An toàn và Chất lượng Thực phẩm quốc gia (SENASICA) Mexico, kể từ ngày 29/7, hàng hóa của các nước có nguồn gốc động vật, thực vật và thủy sản, nhập khẩu vào Mexico phải tuân theo quy định mới về kiểm dịch.

Những người nuôi chim yến trên địa bàn tỉnh đang đau đầu vì sản phẩm của mình phải cạnh tranh với tổ yến nhập khẩu. Hiện chưa có đánh giá cụ thể nào về tỷ lệ tổ yến nhập khẩu đang được bày bán trên thị trường nhưng điều nhìn thấy rõ nhất là giá tổ yến trong nước đã giảm gần 50%.