Trang chủ / Hải sản / Tôm hùm

Khi Tôm Nuôi Phát Ra Ánh Sáng Xanh

Khi Tôm Nuôi Phát Ra Ánh Sáng Xanh
Ngày đăng: 04/04/2012

Hiện tượng tôm nuôi phát ra ánh sáng màu xanh trong đêm tối khiến nhiều nông dân khốn đốn. Đây là bệnh nhiễm vi khuẩn thuộc nhóm Vibrio, trong đó nguy hiểm nhất là Vibrio harveyi. Sự phát sáng của những vi khuẩn này là do có phản ứng hóa học với enzym Luciferase. Để hạn chế thiệt hại cho người nuôi tôm, Trung tâm khuyến ngư Kiên Giang hướng dẫn như sau:

Triệu chứng bệnh phát sáng

Trong ao nuôi, tôm bị bệnh thường bơi lội không định hướng, một số con giạt vào bờ, ao nuôi có hiện tượng tôm chết ở đáy ao với số lượng cao hay thấp tùy thuộc vào mức độ nhiễm. Tôm nhiễm bệnh có đặc điểm chung là vỏ và thân có màu bẩn, cơ có màu đục, gan teo, khả năng bắt mồi giảm, ruột rỗng, phản xạ chậm chạp. Hiện tượng phát sáng dễ nhận biết khi quan sát tôm trong bóng tối. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ mặn, pH, sự tích tụ các chất hữu cơ ảnh hưởng đến sự lây lan và mức độ cảm nhiễm.

Vi khuẩn Vibrio harveyi gây bệnh phát sáng trên tôm sú thuộc nhóm gram âm (G-) sống dưới nước, phân chia tế bào rất nhanh ở độ mặn từ 0 đến 40‰ và phát triển mạnh khi nhiệt độ tăng cao. Vi khuẩn cũng phát triển mạnh trong môi trường nước có hàm lượng chất hữu cơ cao và hàm lượng oxy thấp. Khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể tôm, chúng gây viêm gan, ảnh hưởng đến chức năng tiêu hóa, làm tôm suy yếu và chết dần.

Phòng bệnh

Điều chỉnh độ mặn: vi khuẩn Vibrio harveyi phát triển mạnh ở môi trường có độ mặn 20 - 30‰, nếu giảm mặn còn 5 - 7‰ thì mật độ vi khuẩn Vibrio harveyi sẽ giảm rõ rệt.

Nhiệt độ nước: nhiệt độ nước tăng cao là điều kiện tốt cho vi khuẩn phát triển. Để hạn chế khả năng tăng nhiệt, cần duy trì mức nước trong ao nuôi đạt độ sâu 1,2 - 1,5 m, đồng thời để giữ độ trong ở mức 30 - 40 cm (nước có màu giống như mái nhà che nắng hạn chế được sự tăng nhiệt vào ban trưa).

Giảm lượng chất hữu cơ trong nước: phương pháp này dễ thực hiện và có hiệu quả cao. Các chất hữu cơ có trong môi trường nước là do xác các phiêu sinh thực vật chết lắng tụ, lượng thức ăn dư thừa, cộng với chất thải của tôm. Vì vậy trước mỗi vụ nuôi phải cải tạo ao thật kỹ, vét sạch bùn đáy, bón vôi, phơi ao, khoáng hóa nền đáy. Trong khi nuôi cần quản lý tốt lượng thức ăn hàng ngày, thường xuyên kiểm tra sàn ăn để đánh giá khả năng bắt mồi và kịp thời điều chỉnh thức ăn hợp lý, không để tảo tàn đồng loạt làm mất màu nước và tăng lượng chất hữu cơ. Phát triển nhóm tảo lục (chlorella) cũng có tác dụng khống chế sự phát triển của vi khuẩn, tạo ra oxy và hấp thụ CO2 qua quá trình quang hợp.

Sử dụng hóa chất diệt vi khuẩn (trước khi thả tôm):

Những hóa chất có thể sử dụng để diệt vi khuẩn hoặc làm giảm sức hoạt động của vi khuẩn phát sáng trong nước bao gồm: chlorin (30 g/m3), BKC (1 - 2 g/m3) và thuốc tím (4 - 5 g/m3). Tuy nhiên khi hóa chất hết tác dụng thì những ổ vi khuẩn phát sáng còn sót lại sẽ phát triển. Do đó phải duy trì thường xuyên việc dùng hóa chất mới có kết quả tốt.

Sử dụng kháng sinh: việc sử dụng kháng sinh trị bệnh phát sáng chỉ có kết quả khi nào ta kiểm tra phát hiện sớm tôm bị nhiễm bệnh và dùng thuốc kịp thời, đúng liều lượng. Khả năng đưa thuốc vào cơ thể tôm có thể thực hiện được vì ở giai đoạn này tôm còn ăn thức ăn. Các loại kháng sinh được sử dụng là:

+ Oxytetracylin + Bactrim (tỷ lệ 1:1) ở nồng độ 1 - 3 ppm (g/m3).

+ Erythromycin + Rifamycin (tỷ lệ 5:3), nồng độ 1 - 2 ppm (g/m3).

+ Erythromycin + Bactrim (tỷ lệ 1:1), nồng độ 1 - 3 ppm (g/m3).

Đối với ao nuôi tôm thịt, việc sử dụng kháng sinh trị bệnh phát sáng sẽ gặp nhiều khó khăn và tốn kém do thuốc phải sử dụng cho cả ao và duy trì tới 5 - 7 ngày.

Để phòng trị bệnh phát sáng cho tôm nuôi cần thực hiện tốt mọi biện pháp, từ khâu chọn giống ban đầu, cải tạo ao loại bỏ hết các chất hữu cơ vào đầu vụ, thực hiện nuôi tôm trong độ mặn thấp cho đến việc giữ nước có màu xanh vỏ đậu, hạn chế khả năng tăng cao nhiệt độ, không cho ăn dư, tăng cường sức khỏe tôm nuôi bằng thức ăn giàu dinh dưỡng, bổ sung vitamin và khoáng chất.


Có thể bạn quan tâm

Các Biện Pháp Phòng Và Trị Bệnh Tôm Hùm Các Biện Pháp Phòng Và Trị Bệnh Tôm Hùm

Trong thời gian gần đây, tình hình bệnh tôm hùm nuôi ở huyện Sông Cầu nói riêng, trong tỉnh nói chung có chiều hướng gia tăng.

17/02/2014
Dùng Dung Dịch Điện Hoạt Hóa Để “Cứu” Tôm Hùm Bệnh Dùng Dung Dịch Điện Hoạt Hóa Để “Cứu” Tôm Hùm Bệnh

Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải, Giám đốc Trung tâm Tiết kiệm điện năng và hoạt hóa điện hóa Hà Nội, vừa trực tiếp hướng dẫn cho bà con thôn Phú Vĩnh (xã Xuân Thọ 1, huyện Sông Cầu) các phương pháp sử dụng dung dịch điện hoạt hóa (gọi tắt là Anolyte) để phòng, chữa bệnh cho tôm hùm, đồng thời cải tạo môi trường sinh thái ở vùng biển nuôi tôm hùm tập trung.

18/02/2014
Để Nâng Cao Năng Suất Tôm Hùm Nuôi Thương Phẩm Để Nâng Cao Năng Suất Tôm Hùm Nuôi Thương Phẩm

Các chế độ chăm sóc, quản lý, thiết kế lồng nuôi và chọn mật độ thả thích hợp là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến vụ nuôi. Sau đây là một số lưu ý nhằm giúp tăng năng suất trong nuôi tôm hùm thương phẩm…

15/03/2014
Phòng Chống Bệnh Tôm Hùm Phòng Chống Bệnh Tôm Hùm

Mới đây, ngày 12/10/2007, Bộ NN&PTNT đã ra công văn số 2821 gửi UBND các tỉnh Khánh Hoà, Phú Yên, Bình Định, Ninh Thuận và Bình Thuận; Cục Quản lý Chất lượng, An toàn vệ sinh và Thú y thủy sản; Cục Thú y, về việc phòng chống bệnh tôm Hùm.

23/02/2014
Nuôi Kết Hợp Tôm Hùm Với Bào Ngư Và Xẹm Xanh Nuôi Kết Hợp Tôm Hùm Với Bào Ngư Và Xẹm Xanh

Nghề nuôi tôm hùm phát triển nhanh và tập trung ở một số khu vực hẹp nên chất thải của hoạt động nuôi tích luỹ ngày càng nhiều gây tác động xấu đến môi trường. Để duy trì và phát triển nghề nuôi thuỷ sản theo hướng bền vững thì không còn con đường nào khác là phải hạn chế tối đa tác động xấu đến môi trường.

23/02/2014