Khi nông dân cầm sổ đỏ hiến kế giải cơn khát vốn

Thông qua các chương trình khảo sát, nghiên cứu KT-XH nông thôn vùng ĐBSCL, ông Trần Hữu Hiệp (ảnh), Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ đã trao đổi với NNVN xung quanh vấn đề này.
Vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn là nhu cầu hết sức bức thiết. Thời gian qua, ngành ngân hàng đã có nhiều nỗ lực đáp ứng nhưng kết quả còn nhiều hạn chế. Việc nông dân ĐBSCL cắm sổ đỏ chỉ là một trong những chỉ dấu cho thấy cơn khát vốn và điểm nghẽn tín dụng của khu vực này.
Có thời điểm, ngân hàng không thiếu vốn, nhưng nhiều nông hộ khó tiếp cận vốn vay. Gánh nặng của nông dân còn phải chịu từ “kênh tín dụng không chính thức”. Để có vốn SX họ phải vay nóng để đầu tư, mua chịu vật tư nông nghiệp, phân bón của các đại lý để trả sau và chịu lãi cao. Trong khi đó, hệ thống cung ứng đầu vào cho SX nông nghiệp còn nhiều yếu kém, việc tiêu thụ nông sản thường bị ách tắc.
Cơn khát vốn của nông dân cần được xem xét trong mối liên hệ các vấn đề xã hội của vùng. Tình trạng nghèo khó của nông dân ĐBSCL có đặc điểm riêng, nên cần chính sách đặc thù. Ở vùng này nhiều thập niên qua, không còn nghèo đói mà chỉ còn nghèo khó.
Vùng này không có huyện nghèo để được nhận hỗ trợ, đầu tư và nhiều chính sách an sinh xã hội khác theo chương trình hỗ trợ các huyện nghèo của cả nước. Không có ai đói nhưng nghèo đều, cận nghèo nhiều; là vùng trũng về giáo dục - đào tạo, chất lượng nhân lực...
Cần quan tâm giải quyết căn bản các bức xúc của vùng. Làm sao để hạt gạo không bị cắn chia làm tám phần, con cá tra, cây mía không bị chặt làm nhiều khúc, phần của người nông dân, người cận nghèo được nhận phải tương xứng với công sức họ bỏ ra, đặc biệt là mở lối thoát nghèo, vươn lên làm giàu.
Vì sao vùng đất phương Nam được xem là trù phú bậc nhất cả nước, SX lúa, cá, tôm… XK luôn dẫn đầu, song đa số hộ vẫn bị cuốn theo vòng xoáy nợ nần. Nguyên nhân do đâu, thưa ông?
Nông dân thiếu vốn SX phải “treo" sổ đỏ một phần do thiếu sự đầu tư hỗ trợ từ Nhà nước và DN. Nhiều khu vực còn vắng bóng DN. Đầu tư của DN vào đây cũng rất thấp. Báo cáo thường niên DN Việt Nam 2014 cho thấy, khu vực nông nghiệp chiếm tới 20% GDP nhưng chỉ có 1% DN đầu tư.
Các điểm nghẽn đã được chỉ ra như chính sách không sát thực tiễn, chậm hoặc chưa đến đến được với DN và nông dân. Cả DN và nông dân đều khó tiếp cận vốn vay. Nông dân khó tiếp cận được dữ liệu quy hoạch, thông tin thị trường một cách công khai, minh bạch và đáng tin cậy để có thể “SX theo tín hiệu thị trường”.
Một kết quả nghiên cứu về “Chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo” của Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL và Viện Chiến lược, chính sách phát triển NNNT cho thấy, nếu tính bình quân đất SX khoảng 0,5 ha/hộ, thì một gia đình thuần nông ở ĐBSCL không thể làm giàu. Khó có cuộc chuyển đổi lớn mang tính cải cách mạnh mẽ, trong khi vẫn còn đó những cản trở về chính sách đất đai, thiếu mô hình tốt, tiến bộ kỹ thuật cho SX hàng hóa lớn…
Không thể lắt nhắt một vài dự án hỗ trợ có tính đối phó ngắn hạn, một ít chính sách cho vay “không thấm vào đâu” để đầu tư lớn. Bài toán lợi nhuận và rủi ro của nông dân không chỉ nằm trong đồng vốn tín dụng, mà cần được giải bằng lời giải tổng thể.
Cần tiến hành theo cả 3 trụ cột phát triển bền vững: Kinh tế, xã hội và môi trường; vừa đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhưng phải giải quyết các vấn đề xã hội là tăng thu nhập, nâng cao đời sống của nông dân.
Trong SXKD thì mối quan hệ nông dân với ngân hàng là đương nhiên. Nhưng theo ông có giải pháp nào tốt hơn việc bà con phải gửi sổ đỏ ở ngân hàng?
Vay và nợ là chuyện bình thường trong kinh doanh. Quan trọng là tín dụng sạch, nợ xấu thấp. Tín dụng nông nghiệp, nông thôn không chỉ bị “nghẽn” mà còn đang có vấn đề cần được xem xét.
Kênh tín dụng sắp tới cần được chuyển từ "ban phát", hỗ trợ theo đối tượng “đói vốn” sang tiếp cận theo “chuỗi giá trị nông sản” mới tăng hiệu quả kinh tế.
Những bất ổn của cánh đồng lớn hiện nay là sự liên kết giữa nông dân và DN vẫn lỏng lẻo, cần một cơ chế pháp lý để bảo vệ hai bên. Có liên kết SX hiệu quả thì nông dân mới không phải cắm sổ đỏ ở ngân hàng. |
Nông dân ĐBSCL cần được giải phóng bằng kiến thức của nhà kinh doanh. Họ phải được đào tạo nghề, tập trung vào việc nâng cao giá trị SX các ngành hàng chủ lực; mở rộng các ngành nghề phi nông nghiệp. Đó là cách thức giúp họ không chỉ đứng vững trên đồng ruộng, mà còn có thể làm giàu trên đất quê mình.
Các nhóm giải pháp chủ yếu cần được triển khai đồng bộ là phải nâng cao chất lượng quy hoạch, khuyến khích, thu hút đầu tư tư nhân, nâng cao hiệu quả đầu tư công đến cải cách thể chế, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách.
Hiện mô hình liên kết SX trên cánh đồng lớn của Cty CP BVTV An Giang (AGPPS) với nông dân rất hiệu quả. Ngoài liên kết SX lúa, cách làm này có thể mở rộng sang các lĩnh vực khác không?
Mô hình cánh đồng lớn hay cánh đồng liên kết của AGPPS đã trở thành điểm sáng trong nông nghiệp, được nhân rộng ở nhiều tỉnh, thành ĐBSCL.
1.724 nông dân đã mua hơn 1,8 triệu cổ phiếu với số tiền hơn 56 tỷ đồng của AGPPS mở ra kỳ vọng về hướng đi mới của ngành nông nghiệp, “doanh nhân hóa nông dân” đã thành hiện thực.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 62/2013/QĐ-TTg, Bộ NN-PTNT đã ban hành Thông tư 15/2014/TT-BNNPTNT về chính sách khuyến khích hợp tác hỗ trợ liên kết SX gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng CĐL.
Mô hình này có thể được nghiên cứu, ứng dụng trong các lĩnh vực thủy sản, trồng mía hay cây ăn trái. Tất nhiên yêu cầu và điều kiện liên kết sẽ khác nhau.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy cánh đồng lớn vẫn tồn tại những hạn chế. Có vướng mắc đã vượt ngoài tầm nỗ lực của AGPPS. Nó đang đòi hỏi sự chuyển đổi căn bản, toàn diện và cần những cải cách mạnh mẽ hơn nữa từ cơ chế, chính sách đồng bộ.
Xin cảm ơn ông!
Có thể bạn quan tâm

Thực hiện dự án phát triển ngành nghề sản xuất theo chương trình Xây dựng Nông thôn mới. Trạm Khuyến nông huyện Phú Tân (An Giang) vừa tổ chức hội thảo mô hình Nuôi cá tra BMP. Bà con nông dân được nghe báo cáo quy trình thực hiện mô hình Nuôi cá tra BMP và tham quan thực tế mô hình của nông dân Trần Hữu Nghĩa, ngụ ấp Hoà Lợi, xã Phú Hiệp.

Tổng Công ty Thủy sản Việt Nam (Seaprodex) đã cùng với 30 DN và hơn 400 nhà đầu tư tham dự sự kiện Gateway to Việt Nam 2014 với chủ đề “Tìm kiếm cơ hội đầu tư mới tại Việt Nam”. Tại sự kiện, Seaprodex đã có buổi giới thiệu, giao lưu gặp gỡ với các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Seaprodex có nhiều sản phẩm thủy sản khác nhau: cá tầm, cá tra, cá chẻm, cá hường, cá đục, cá thu… đặc biệt mặt hàng tôm XK của Seaprodex rất được thị trường các nước EU, Mỹ, Nhật, Úc và thị trường châu Á ưa chuộng. Riêng đối với sản phẩm cá tầm, Seaprodex đang triển khai nuôi cá tầm thương phẩm tại hồ Kala, huyện Di Linh, Lâm Đồng với diện tích mặt hồ là 320 ha, cung cấp một lượng cá tầm lớn trên thị trường trong nước và XK. Với nhiều lợi thế về ngành nghề kinh doanh, tiềm năng phát triển của mình, Tổng Công ty Thủy sản Việt Nam đã thu hút được hơn 50 nhà đầu tư trong nước và quốc tế quan tâm và tìm kiếm cơ hội đầu tư hợp tác với Seaprodex. Dự kiến cuối năm 2014, Tổng Công ty Thủy sản Việt Nam sẽ chào bán cổ phiếu lần đầu ra

Đang làm vị trí trưởng phòng tại một công ty cơ khí, anh Chính lại quyết định bỏ công việc để về xã Hòa Ninh (huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng) mở trại nuôi thỏ. Đó là câu chuyện của anh Dương Văn Chính (SN 1980) từ kỹ sư cơ khí trở thành người nhân thành công giống thỏ lai thu lãi ròng mỗi năm khoảng 360 triệu đồng.

Từ chỗ chỉ hơn 1.000 con với vài hộ nuôi vào thời gian đầu, đến nay trên địa bàn ấp Đồng Chèo, xã Lai Uyên, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương đã có 11 trang trại nuôi heo với gần 20.000 con. Hiện nay, Đồng Chèo là điểm sáng về chăn nuôi của xã.

Sau hai chuyến hành trình bay thẳng, ngày 23/9 và 30/9/2014, các chuyên cơ của Hãng hàng không Qantas Airways, Australia đã chở 400 con bò cao sản mang thai được Vinamilk nhập từ Úc về Việt Nam qua cảng Hàng không sân bay quốc tế Nội Bài, Hà Nội.