Hội Thảo Xác Định Nguyên Nhân Gây Chết Trên Ngao, Tu Hài Nuôi

Ngày 21/8/2014, tại thành phố Hạ Long, Quảng Ninh, Tổng cục Thủy sản đã phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT Quảng Ninh tổ chức Hội thảo xác định nguyên nhân gây chết trên ngao, tu hài nuôi và giải pháp khôi phục nghề nuôi.
Theo Vụ Nuôi trồng Thủy sản (Tổng cục Thủy sản), những năm gần đây, nghề nuôi ngao ở Việt Nam đã gặp không ít khó khăn do hiện tượng ngao chết theo mùa hàng năm.
Năm 2014 được nhận định là ngao chết ít hơn. Tuy nhiên, sau đợt nắng nóng kéo dài kết hợp mưa dông lớn đã làm độ mặn vùng nuôi ngao giảm đột ngột nên diện tích nuôi ngao bị chết tăng. Riêng Thái Bình có khoảng 1.096 ha bị chết, gây thiệt hại khoảng 7.000 tấn ngao.
Đối với tu hài, năm 2012, tại huyện Vân Đồn (Quảng Ninh), khoảng 200 triệu tu hài chết ước thiệt hại 200 tỷ đồng. Từ tháng 4/2014, đã xuất hiện tu hài chết ở các vùng ben biển thuộc vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa). Theo nhận định ban đầu, tác nhân gây bệnh chính là bệnh truyền nhiễm do vi sinh vật có dạng giống virus với biểu hiện sưng vòi ở tu hài. Đối với hiện tượng ngao chết ở Thái Bình thời gian qua, Cục Thú y đã nghiên cứu và tìm ra nguyên nhân ngao chết hàng loạt là do nắng nóng, mật độ nuôi cao, nhiệt độ cao.
Theo một số đại biểu người nuôi tu hài ở Vân Đồn, nuôi tu hài phát triển nhanh do lãi lớn. Nhiều người nuôi nên nguồn giống không đáp ứng đủ. Giống chủ yếu được đưa về từ Nha Trang hoặc nhập của Trung Quốc.
Một số người nuôi tự lai giống đến thế hệ F3, F4, khiến sức đề kháng của con giống kém ảnh hưởng đến chất lượng nuôi tu hài. Hiện ở Vân Đồn có 3 loài tu hài: tu hài thông thường, tu hài vòi màu tím, tu hài méo miệng.
Bệnh chỉ xảy ra với tu hài thông thường, hai loại còn lại không chết hoặc ít chết, tỉ lệ sống 50% sau khi ương, hiện đang phát triển tốt, nên có thể thay thế cho tu hài thông thường đang bị bệnh.
Theo Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I, tu hài chết do virus gây sưng vòi cộng thêm độ pH, độ mặn gây chết. Nguyên nhân do kỹ thuật nuôi, quy hoạch, kiểm soát con giống. Hiện nay, mật độ nuôi quá dày ảnh hưởng môi trường và thức ăn.
Vì vậy, quy hoạch nuôi tu hài cần tránh vùng triều cao, đảm bảo lượng thức ăn tự nhiên cho tu hài.Bên cạnh đó cần kiểm soát con giống. Hiện nguồn giống tu hài chưa được kiểm soát, nên cần có phương pháp chẩn đoán vius. Giải pháp lâu dài là phải có chiến lược đàn tu hài bố mẹ có khả năng chống chịu tốt môi trường, khả năng kháng bệnh tốt.
Trước mắt, cần sớm đưa ra kết luận trong tháng 10/2014 tại diễn đàn công nghệ sẽ được tổ chức tại Quảng Ninh và giải đáp thông tin liên quan đến dịch bệnh.
Về lâu dài, các viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản cần nghiên cứu tạo ra giống tu hài, giống ngao có sức đề kháng với môi trường, kháng bệnh. Xây dựng quy trình kỹ thuật chuẩn đáp ứng nhu cầu sản xuất hiện nay.
Chuyển đổi một số diện tích nuôi tu hài sang nuôi ngao đá và ngao hoa, rà soát lại quy hoạch của từng địa phương, tránh tình trạng nuôi quá dày. Vụ Nuôi trồng thủy sản nghiên cứu xây dựng thông tư quy định về điều kiện nuôi, quản lý và kiểm dịch chất lượng con giống, bổ sung thêm đề tài, dự án khôi phục và khắc phục nghề nuôi này.
Bộ Nông nghiệp và PTNT đã xác định nhuyễn thể là đối tượng mang lại giá trị kinh tế cao, do đó, việc tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để khôi phục nghề nuôi này có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết.
Có thể bạn quan tâm

Ở thôn Bỉnh Nghĩa (xã Bắc Sơn, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận), mọi người ai cũng biết và khâm phục ông Châu Quầy - nông dân Chăm rắn rỏi, nỗ lực vượt khó làm giàu trên mảnh đất quê hương.

Tuần qua, tại hội thảo “Phát triển chăn nuôi bền vững, chủ động hội nhập cộng đồng ASEAN (AEC) và TPP” do Tổng hội Nông nghiệp - Phát triển nông thôn và Hội Chăn nuôi Việt Nam tổ chức ở TPHCM, ông Hồ Xuân Hùng, Chủ tịch Tổng hội cho biết, 2015 là năm bước ngoặt đối với nền nông nghiệp Việt Nam, nhất là ngành chăn nuôi trước cánh cửa hội nhập quốc tế sâu rộng.

Trong 6 tháng đầu năm, đại đa số các vật nuôi không có đợt dịch nào bùng phát nên ngành chăn nuôi khá ổn định và có sự tăng trưởng nhẹ về sản lượng ở nhiều loại vật nuôi.

Những năm gần đây, người dân ở các huyện Phú Hòa, Sông Hinh, Đồng Xuân (Phú Yên) bắt đầu thực hiện mô hình nuôi dúi. Sau một thời gian nuôi thử nghiệm, vật nuôi này tỏ ra dễ thích nghi, phát triển tốt nhưng người nuôi lại gặp khó khăn trong việc tìm được thị trường đầu ra ổn định.

Nhờ chuyển đổi giống cây trồng phù hợp với điều kiện kinh tế của gia đình, nên những năm qua, gia đình bà Nguyễn Thị Lưỡng, ở thôn Gia Lành, xã Gia Hiệp (Di Linh, Lâm Đồng), đã thoát khỏi cuộc sống nghèo khó. Từ trồng dâu nuôi tằm, đến nay, bình quân gia đình bà Lưỡng có thu nhập lên đến 200 triệu đồng/năm.