Hỗ Trợ Vốn Lưu Động Cho Nghề Biển

Chịu lãi suất cao khi vay “nóng” để lo chi phí chuyến biển khiến hiệu quả khai thác của ngư dân chưa cao. Theo chính sách mới, Nhà nước cho vay 70% chi phí chuyến biển sẽ tạo điều kiện cho ngư dân yên tâm bám biển.
GẶP chúng tôi tại cảng cá Tam Quang (Núi Thành), nhiều chủ tàu cá cho biết sản lượng khai thác trong vụ sản xuất chính đến thời điểm này đạt tương đối cao, thế nhưng hiệu quả kinh tế thu được không tương xứng.
Ông Phạm Quá (thôn Tân Lập, xã Tam Hải, Núi Thành), chủ tàu cá QNa 90136 có công suất 450CV làm nghề lưới vây, chia sẻ: “Tính trung bình mỗi chuyến biển từ đầu vụ cá chính đến nay, gia đình tôi khai thác được khoảng 15 tấn/chuyến, bán được hơn 200 triệu đồng.
Nếu chỉ trừ chi phí của mỗi chuyến biển là hơn 100 triệu đồng thì cả chủ tàu và “bạn” đều có lãi. Tuy nhiên do phải “gánh” thêm khoản vay “nóng” với lãi suất 50% để mua sắm xăng dầu và các nhu yếu phẩm nên gia đình không thu nhập bao nhiêu”.
Từ đầu tháng 3, khi vụ sản xuất chính bắt đầu, giá cá ngừ và cá nục (sản phẩm chính của nghề lưới vây) chỉ đạt chừng 12 - 15 nghìn đồng/kg, giảm khoảng 5 nghìn đồng/kg so với cùng kỳ. Trong khi đó giá nhiên liệu luôn tăng, cộng với lãi suất vay cao đã làm nhiều chủ tàu lo lắng. “Năm nay hiệu quả kinh tế của nghề lưới vây xuống thấp chưa từng thấy. Nếu đà này cứ tiếp diễn thì khó tìm người đi bạn.
Chỉ mong Nhà nước mau chóng triển khai chính sách cho vay vốn lưu động là 70% chi phí chuyến biển với lãi suất thấp để chúng tôi giảm chi phí trong mỗi lần sản xuất trên các vùng biển xa” - ông Phan Bá Tám (thôn Sâm Linh Đông, xã Tam Quang), chủ tàu cá QNa-91537 cho biết.
Để đóng được tàu cá có công suất lớn bám biển tại các vùng biển xa, do nguồn vốn hạn chế, hầu hết ngư dân phải vay thêm của ngân hàng. Do chi phí chuyến biển khá cao, nhiều ngư dân phải vay mượn của người thân, thậm chí vay “nóng” của các đầu nậu khiến chủ tàu luôn phải thấp thỏm lo âu vì chịu thiệt khi tiêu thụ hải sản.
Nỗi lo này sẽ được tháo gỡ khi Nghị định 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát triển thủy sản được triển khai, nguồn vốn vay lưu động sẽ giúp ngư dân làm chủ được những chuyến vươn khơi của mình.
Khi không còn phụ thuộc vào đầu nậu thì ngư dân sẽ lựa chọn cho mình chỗ bán hải sản đem lại giá trị cao nhất, qua đó nâng cao hiệu quả chuyến biển. Điều quan trọng là các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh sẽ triển khai việc cho vay này như thế nào để ngư dân dễ dàng tiếp cận.
Có thể bạn quan tâm

Hiện nay cà phê là loại cây công nghiệp chủ lực ở huyện miền núi Hướng Hóa (Quảng Trị). Với diện tích gần 5.000 ha, trong đó có gần 4.500 ha đã cho thu hoạch đem lại giá trị kinh tế hàng năm trên 300 tỷ đồng. Nguồn thu nhập từ cây cà phê không chỉ xóa đói giảm nghèo mà giúp nhiều hộ gia đình trở thành triệu phú.

Trong 2 năm 2013-2014, xã Mỹ Hòa Hưng (TP. Long Xuyên, An Giang) có 56 nông dân duy trì trồng màu chuyên canh, 17 nông dân lập vườn trồng cây ăn trái và kết hợp dịch vụ phục vụ du lịch. Xã hiện có 6 mô hình sản xuất- kinh doanh nông thôn, góp phần đa dạng hóa các ngành nghề làm ăn trên đất cù lao.

Chúng tôi về Ninh Thọ, TX Ninh Hòa những ngày này, khi các cánh đồng lúa 1 vụ và những vùng đất chân cao nông dân trồng ớt đã bước vào mùa thu hoạch rộ. Không khí thu hoạch ớt trên ruộng rất khẩn trương, cứ 3 - 4 ngày nông dân lại hái ớt bán cho các vựa.

Theo đánh giá của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Gạo (Tiền Giang), người dân trồng gừng Tết năm nay trúng mùa, được giá. Toàn huyện có gần 200 ha gừng Tết, được trồng ở các xã: Quơn Long, Bình Phan, Bình Phục Nhứt và Tân Thuận Bình.

Sau nhiều năm vừa làm vừa rút kinh nghiệm, mở rộng quy mô, đến nay gia đình anh Thảo đã có trại nấm mèo, bào ngư gần 100 bịch. Anh Thảo cho biết: Trồng nấm dễ, không mất nhiều thời gian, công sức nhưng để duy trì nghề này thì phải biết kỹ thuật, kinh nghiệm và kiên trì, chịu khó.