Hỗ Trợ Nuôi Bò Sinh Sản Mô Hình Giảm Nghèo Hiệu Quả Ở Đản Ván

Là một trong những xã còn nhiều khó khăn của huyện Hoàng Su Phì, những năm qua, xã Đản Ván được thụ hưởng nhiều chương trình hỗ trợ của Nhà nước về con giống, cây trồng để phát triển sản xuất, nâng cao mức sống. Trong đó, dự án nhân rộng mô hình giảm nghèo chăn nuôi bò sinh sản từ chương trình xóa đói giảm nghèo của Sở Lao động – TBXH là một trong những chính sách đem lại nhiều hiệu quả thiết thực, ý nghĩa, góp phần trực tiếp vào kết quả giảm nghèo tại địa phương.
Nhờ được hỗ trợ bò sinh sản, nhiều hộ nghèo ở xã Đản Ván có điều kiện phát triển chăn nuôi, xóa đói giảm nghèo.
Dự án được triển khai từ cuối năm 2012 với nguồn kinh phí 160 triệu đồng, qua đó 20 hộ nghèo thuộc 2 thôn: Lủng Khum và Thính Nà, xã Đản Ván được bình xét hỗ trợ 20 con bò sinh sản (định mức hỗ trợ 8 triệu đồng/hộ).
Ngoài ra, các hộ tham gia dự án còn được hỗ trợ 2 triệu đồng để làm chuồng trại và trồng cỏ chăn nuôi. Trong quá trình thực hiện dự án, người chăn nuôi được tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc cỏ; cách làm chuồng trại, kỹ thuật chọn con giống, chăm sóc và phối giống cho bò... Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ khuyến nông, thú y xã thường xuyên tuyên truyền, giúp người dân tiêm phòng và phòng, chống đói rét cho đàn bò.
Nuôi bò sinh sản là mô hình chăn nuôi cho hiệu quả kinh tế cao, nhưng không phải hộ dân nào cũng có điều kiện đầu tư mua con giống về nuôi. Thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất nên cái nghèo vẫn luôn đeo bám họ bao lâu nay.
Việc hỗ trợ bò sinh sản từ dự án nhằm giúp các hộ nghèo có điều kiện vươn lên phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo là rất cần thiết. Gia đình anh Sùng Văn Khún, thôn Thính Nà là một trong những hộ như thế. Anh Khún cho biết, từ cuối năm 2012 gia đình anh vinh dự là một trong số ít hộ của thôn được bình xét hỗ trợ 1 con bò sinh sản, với giá trị hơn 8 triệu đồng.
Nhờ chăm sóc tốt, áp dụng chăn nuôi đúng KHKT mà cán bộ xã hướng dẫn, đồng thời chú trọng tới trồng cỏ làm thức ăn cho bò nên đến nay con bò mẹ ban đầu đã sinh được 2 con bê. Anh Khún chia sẻ: Từ ngày được hỗ trợ bò sinh sản, kinh tế gia đình anh được cải thiện đáng kể. Từ một hộ nghèo, không có con giống để sản xuất, giờ đây gia đình anh đã có đàn bò để chăm sóc, đây sẽ là cơ hội để gia đình anh vươn lên thoát nghèo bền vững.
Cùng thôn với anh Khún, gia đình anh Sùng Văn Vu cũng được hỗ trợ 1 con bò sinh sản. Nhờ chăm sóc tốt mà chỉ sau hơn 1 năm bò đã sinh ra 1 bê con. Hiện nay, con bê được hơn 4 tháng tuổi và đang phát triển rất tốt. Theo anh Vu, chính sách hỗ trợ bò sinh sản cho hộ nghèo là sự hỗ trợ rất kịp thời và hiệu quả, mang lại lợi ích kinh tế thiết thực, tạo động lực cho gia đình anh vươn lên thoát nghèo.
Đánh giá về hiệu quả của dự án hỗ trợ bò sinh sản tại địa phương, đồng chí Vi Trung Luyến, Chủ tịch UBND xã Đản Ván cho biết: Sau hơn 2 năm thực hiện, dự án đã thật sự trở thành “cứu cánh” và là động lực giúp cho nhiều hộ nghèo vươn lên phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
Đến nay, tổng đàn bò của các hộ trong dự án là 37 con, trong đó: Bò cái sinh sản là 20 con, số bò bê sinh ra là 17 con. Qua rà soát đã có 10/20 hộ nghèo được hưởng lợi từ dự án đã thoát được nghèo, từng bước vươn lên phát triển kinh tế gia đình. Trong thời gian tới, chính quyền xã sẽ phối hợp với Phòng Lao động – TBXH huyện để tiếp tục chuyển giao số bò bê mới sinh cho các hộ nghèo khác trong xã có điều kiện vươn lên thoát nghèo.
Với việc triển khai thực hiện một cách tích cực, đúng tiêu chí, đối tượng hưởng thụ, dự án nhân rộng mô hình giảm nghèo chăn nuôi bò sinh sản đã tạo được niềm tin và sự hưởng ứng tích cực của người dân, tạo sức bật đối với những hộ nghèo của xã Đản Ván. Từ những hiệu quả thiết thực, dự án đã giúp các hộ nghèo dần có cuộc sống ấm no, ổn định, từng bước tiến tới giảm nghèo bền vững theo đúng mục tiêu của dự án.
Có thể bạn quan tâm

Với vốn đầu tư 80.000 USD, hệ thống này có thể xử lý 40 tấn rau quả/ngày. “Sắp tới, công ty sẽ áp dụng phương pháp này để xuất khẩu xà lách Mỹ và tỏi tây sang Nhật” - ông Thành nói.

Cây mì là một trong những cây trồng chủ lực, góp phần xóa đói giảm nghèo của huyện Krông Pa trong những năm qua. Bởi đây là loại cây trồng tương đối phù hợp với thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu tương đối khắc nghiệt, nhất là phù hợp với trình độ canh tác của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn.

Những ngày cuối tháng 7-2014, ông Chiêm Thành Long, giám đốc khu du lịch Bình Quới (Bình Thạnh, TP.HCM), cùng đầu bếp của mình tìm đến tận vườn rau của Hợp tác xã (HTX) Tân Tiến (P.12, Đà Lạt) tận mắt chứng kiến đơn vị này sản xuất rau.

Năm 2014 là năm đầu tiên tỉnh phân cấp quản lý dạy nghề nông thôn về cho địa phương, đây là điều kiện thuận lợi để địa phương chủ động trong việc quản lý, dạy nghề cho nông dân nhưng cũng là khó khăn cho địa phương vì chưa có kinh nghiệm trong việc thực hiện.

Có hai kiểu lồng nuôi phổ biến là lồng vuông bằng gỗ, sắt, quây lưới, thể tích 30 - 180 m 3 , được dùng nuôi ở vũng vịnh kín sóng gió; loại thứ hai là lồng nhựa chịu lực HDPE hình tròn (thể tích 300 m 3 trở lên), có thể nuôi được ở những vùng biển hở có sóng gió lớn. Cỡ mắt lưới dùng cho lồng nuôi tăng dần theo sự tăng trưởng của cá (a = 1,5 - 3 cm).