Hiệu Quả Từ Một Mô Hình Sản Xuất Nấm Ở Bình Thuận

Từ chối mức lương ổn định hàng tháng để quay về quê nhà lập cơ sở sản xuất nấm cho riêng mình. Đó là cách nghĩ, cách làm của chàng kỹ sư trẻ Trần Minh Kiển (29 tuổi) ở khu phố 1, thị trấn Tân Nghĩa, huyện Hàm Tân (Bình Thuận), bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế với nguồn thu nhập hàng chục triệu đồng mỗi đợt sản xuất.
Cầm bằng đại học về quê
Đã từng tham gia làm việc cho các công ty, cơ sở sản xuất nấm ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Lâm Đồng, chàng kỹ sư trẻ Trần Minh Kiển ôm khát vọng về quê nhà lập cơ sở sản xuất nấm, tại thị trấn Tân Nghĩa. Cơ sở sản xuất nấm của Kiển hình thành trên vùng đất rộng gần 2.000 m2, đã gần hai năm nay.
Câu chuyện chàng kỹ sư trẻ từ chối mức lương ổn định, cầm bằng đại học về quê, lập cơ sở sản xuất nấm khiến ai nghe qua cũng ngạc nhiên. Với số vốn ban đầu chỉ vài chục triệu đồng dành dụm từ việc làm công cho các công ty, cơ sở sản xuất nấm, Trần Minh Kiển quyết định mượn thêm vốn của người thân và gia đình, để mở cơ sở sản xuất và cung cấp phôi giống cho người dân. Khác với các mô hình sản xuất nấm trên địa bàn tỉnh, Kiển chỉ chú trọng sản xuất hai loại nấm chính: nấm Linh chi và nấm Bào ngư.
Đây là hai loại nấm được thị trường tiêu thụ mạnh, có giá trị kinh tế cao hơn so với các loại nấm khác hiện nay. Trên diện tích đất gần 2.000 m2, Kiển xây dựng được 5 trại để phục vụ việc sản xuất nấm của mình. “Điều kiện khí hậu phù hợp, lại gần với các tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, thuận lợi cho việc lấy phôi giống cũng như nguyên liệu để sản xuất. Mặt khác đây cũng là một trong những nơi tiêu thụ sản phẩm nấm rất nhiều. Vì thế khá chủ động trong việc sản xuất và phát triển”, Trần Minh Kiển tiết lộ khi chọn vùng đất này để gây dựng cơ sở sản xuất của mình.
“Táo bạo mới thành công…”
Học đại học chuyên ngành về công nghệ sinh học tại TP. Hồ Chí Minh, cộng mấy năm thực tế làm nấm cho các công ty, vì thế Kiển tích lũy khá nhiều kinh nghiệm trong việc sản xuất. Anh cho biết, đối với việc sản xuất nấm Linh chi hay nấm Bào ngư thì người sản xuất phải có bước thực hiện bài bản. Đầu tiên dùng bịch nilon cho nguyên liệu là các bột cưa trộn vào đầy bịch. Sau đó tiến hành hấp khử trùng trong lò sấy để diệt các vi khuẩn nấm dại.
Khi hấp khử trùng xong, sẽ đem ra ngoài và tiến hành cấy phôi giống nấm theo quy trình riêng. Sau khi cấy nấm giống xong, chuyển qua giai đoạn ủ để nuôi tơ. Giai đoạn ủ kéo dài một tháng hoặc một tháng 10 ngày tùy thuộc vào nấm Linh chi hay nấm Bào ngư. Sau thời gian ủ, meo nấm mọc đầy bịch phôi, lúc này bịch nấm chuyển màu từ nâu đỏ sang màu trắng, đó là dấu hiệu nấm con xuất hiện. Giai đoạn này chuyển ra trại trồng, tiến hành rút nút để chăm sóc dễ dàng và thuận lợi.
“Một đợt sản xuất nấm kéo dài khoảng 4 tháng là thu hoạch xong, trừ chi phí lãi hơn 20 triệu đồng đối với nấm Linh chi và trên 16 triệu đồng đối với nấm Bào ngư cho một trại sản xuất. Sản xuất nấm là một mô hình mới, mang lại hiệu quả khá. Thời gian lao động trực tiếp rất ít, chỉ vài tiếng đồng hồ là có thể chăm sóc cho trại sản xuất khoảng 10.000 bịch nấm. Đây là mô hình sản xuất phù hợp cho các gia đình, lại nhanh cho thu hoạch, thường ít rủi ro”, Trần Minh Kiển cho biết.
Từ mô hình sản xuất của Trần Minh Kiển, một số hộ nông dân ở huyện Đức Linh cũng đã tìm đến học hỏi và áp dụng. Theo các hộ dân áp dụng mô hình tiết lộ, thì việc sản xuất nấm Linh chi, cũng như nấm Bào ngư có cơ hội kiếm thêm thu nhập cao hơn.
Có thể bạn quan tâm

Bậc cao niên ở Na Hang cũng không rõ những “cụ” chè Shan tuyết cổ thụ đã sống cùng rừng núi nơi đây từ bao giờ. Các thế hệ người Mông, người Dao lấy lá chè Shan làm đồ uống như một sản vật của sơn thần ban tặng. Cây chè Shan hợp phong thủy, thổ nhưỡng nơi lưng chừng trời, lại được người dân bản địa đón nhận nên phát triển tự nhiên.

Thời gian qua, ngành thủy sản TP Cần Thơ đã có bước chuyển căn bản, phát huy lợi thế, nâng cao thu nhập cho người nuôi. Chuẩn bị đường dài trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, TP Cần Thơ đã và đang đầu tư, phát triển ngành thủy sản theo hướng nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh ở "sân nhà" và phục vụ nhu cầu chế biến xuất khẩu.

Cùng với việc khảo sát và đánh giá nguồn lợi hải sản xa bờ, dự án tập trung vào mục tiêu tăng cường sự hiểu biết của mỗi quốc gia trong việc quản lý nghề cá xa bờ, nhất là quản lý nguồn lợi cá ngừ đại dương; góp phần nâng cao trách nhiệm của các nước và các tổ chức trong khu vực để cùng tham gia quản lý nguồn lợi xa bờ.

Trong thời gian nuôi, cán bộ Trung tâm KN và Trạm Khuyến nông các huyện, TP đã xuống địa bàn thường xuyên để hướng dẫn kỹ thuật và kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh về môi trường, dịch bệnh đồng thời đưa ra những kinh nghiệm, những sáng kiến trong nuôi thủy sản để bà con áp dụng nhằm đem lại hiệu quả cao hơn.

Bên cạnh mở rộng quy mô, ngành chuyên môn sẽ áp dụng các giải pháp đồng bộ để tăng năng suất tôm nuôi. Đồng thời, kết hợp nuôi đa con trên cùng một đơn vị diện tích. Địa phương có giải pháp bố trí, sắp xếp và tạo điều kiện phát huy lĩnh vực khai thác biển, nhất là khai thác xa bờ.