Hiệu quả từ một mô hình khuyến ngư

Đây là một trong những mô hình đã mang lại hiệu quả kinh tế cao và bền vững cho người sản xuất.
Anh Nguyễn Ngọc Thường ở tại thôn Đại Hào (xã Triệu Đại, huyện Triệu Phong) là một người có thâm niên nuôi cá hơn 10 năm với các đối tượng nuôi chủ yếu là cá lóc và cá trê. Tuy nhiên ban đầu do nuôi theo kinh nghiệm nên hiệu quả thu được không cao.
Năm 2012, được sự hỗ trợ của Trung tâm KNKN, anh đã nhận thực hiện mô hình nuôi cá lóc trong bể xi măng trên diện tích 120m2. Số lượng cá giống thả nuôi là 3.000 con, kích cỡ cá giống từ 600 - 700 con/kg. Tham gia thực hiện mô hình bên cạnh sự hỗ trợ về con giống và thức ăn cho cá anh còn được cán bộ kỹ thuật của trung tâm hỗ trợ về kỹ thuật trong suốt quá trình thực hiện mô hình. Nhờ đó chỉ sau 6 tháng chăm sóc đàn cá lóc nuôi đạt trọng lượng trung bình từ 1 - 1,2 kg/con, tỷ lệ sống đạt trên 70%. Với giá bán cá lóc thương phẩm từ 80 - 85.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí anh thu lãi từ 40 - 50 triệu đồng.
Anh Thường cho biết, cá lóc giống được anh mua tại trại giống có uy tín ở Huế. Thức ăn cho cá lóc chủ yếu là các loại cá nhỏ tươi được mua từ biển Cửa Việt. Đây là nguồn thức ăn dồi dào nhưng giá thành lại rẻ, giúp cá lóc nhanh lớn. Theo anh Thường, trong quá trình nuôi cá lóc thì khó nhất là 2 tháng nuôi đầu tiên. Lúc này thức ăn cho cá phải là cá tươi hấp chín, gỡ thịt cho cá lóc ăn 2 lần/ngày vào lúc sáng sớm và chiều mát.
Giải thích về vấn đề này anh Thường cho biết, cho cá cá lóc ăn cá tươi hấp chín giai đoạn này là để cá không quen với mùi tanh, hạn chế ăn thịt lẫn nhau. Sau 2 tháng nuôi thì có thể giảm lại số lần cho ăn xuống còn 1 lần/ngày. Tuy nhiên theo kinh nghiệm của anh thì nên cho cá ăn vào buổi trưa lúc 11 - 12 giờ vì lúc này khi ăn no cá sẽ nằm im, ít vận động nên ít tiêu tốn thức ăn. Nguồn nước lấy vào phải trong sạch, không bị ô nhiễm, trong thời gian đầu nên lấy nước từ mương thủy lợi, sau khi cá quen thì có thể cấp thêm nước giếng vào. Lưu ý là trong quá trình nuôi không thay toàn bộ nước trong bể nuôi mà chỉ nên thay tối đa là 50%. Nhờ luôn tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật nên cá lóc nuôi trong bể của anh luôn đạt tỷ lệ sống cao, bình quân từ 70% trở lên.
Với những kinh nghiệm rút ra sau khi thực hiện mô hình nuôi cá lóc thương phẩm, hiện nay mỗi năm anh Thường thả nuôi 2 lứa cá lóc, lứa đầu từ tháng 2 - 6 và lứa 2 từ tháng 7 - 12 âm lịch, thu về1,1 - 1,2 tấn cá thương phẩm, thu lãi hơn 100 triệu đồng. Thị trường tiêu thụ cá lóc khá ổn định, nuôi được bao nhiêu là bán hết bấy nhiêu.
Chị Hoàng Thùy Trang, cán bộ kỹ thuật trực tiếp chỉ đạo mô hình nuôi cá lóc cho biết: Ưu điểm của phương thức nuôi cá lóc trong bể xi măng có thể nhìn thấy đó là: dễ kiểm soát được môi trường nước và dịch bệnh, chủ động được nguồn nước và ít rủi ro do thiên tai.
Tuy nhiên, để nuôi cá đạt hiệu quả kinh tế cao thì vấn đề đảm bảo con giống tốt, kỹ thuật nuôi đòi hỏi quy trình khá chặt chẽ. Bể nuôi cần láng nhẵn phần nền, có bờ gạch bao quanh. Trong mỗi bể nuôi cần thiết kế hệ thống cống cấp và thoát nước, tốt nhất là thiết kế ống xả đáy để có thể tháo toàn bộ chất thải và thức ăn dư thừa của cá lóc ra ngoài, hạn chế ô nhiễm môi trường nuôi. Từ mô hình đầu tiên được thực hiện tại hộ anh Nguyễn Ngọc Thường, đến nay chỉ tính riêng trên địa bàn xã Triệu Đại đã có 5 hộ thực hiện mô hình nuôi cá lóc trong bể này.
Theo Phó giám đốc Trung tâm KNKN tỉnh Nguyễn Thanh Tùng, qua kết quả của mô hình cho thấy việc nuôi cá lóc trong bể xi măng mang hiệu quả kinh tế cao, không đòi hỏi diện tích nuôi lớn. Hơn nữa, mô hình này khá phù hợp với điều kiện tự nhiên ở các vùng đồng bằng, ven biển, mỗi hộ chỉ cần 15 - 20 m2 bể trở lên thì cũng có thể nuôi đối tượng này nhằm cải thiện đời sống và tạo công ăn việc làm cho nông dân. Sự thành công của mô hình không chỉ đa dạng hóa được đối tượng nuôi, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, giảm thiểu rủi ro về môi trường, giảm chi phí đầu tư... mà còn được coi là một trong những giải pháp mang tính bền vững và có hiệu quả cao cho người sản xuất. Trong thời gian tới, trung tâm sẽ có kế hoạch để nhân rộng mô hình nuôi cá lóc trong bể xi măng nhằm giúp cho người dân nâng cao hiệu quả trên đơn vị diện tích.
Có thể bạn quan tâm

Mấy chục năm có mặt ở Đà Lạt, phương thức trồng dâu tây của nông dân vẫn không có gì thay đổi. Đó là trồng ở ngoài ruộng và nhân giống bằng cách tách thân bò và cây con từ cây chính để trồng lại. Sau nhiều năm, giống dâu tây phát sinh nhiều thứ bệnh như héo lá, đốm đỏ, vàng mép lá, đặc biệt virus xoắn lá làm giảm năng suất và phẩm chất trái dâu. Điều này buộc người nông dân ngày càng sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật hơn, đặc biệt là các loại thuốc diệt nấm.

Tiếp đó, ngày 17-7 tại TP.HCM sẽ diễn ra hội thảo và họp báo tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các nhà phân phối và người tiêu dùng về tầm quan trọng của việc phân phối và sử dụng nước mắm mang chỉ dẫn địa lý Phú Quốc. Một hội thảo tương tự sẽ diễn ra tại thủ đô Hà Nội vào ngày 22-7.

Hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có khoảng 152 tổ chức, cá nhân kinh doanh trái thanh long gồm 106 hộ kinh doanh và 46 doanh nghiệp, cơ sở thu mua, sơ chế, đóng gói. Trong đó có 14 doanh nghiệp xuất khẩu chính ngạch thanh long. Hoạt động thu mua thanh long tại nơi sản xuất chủ yếu do thương lái đảm nhiệm, các doanh nghiệp xuất khẩu thanh long chỉ trực tiếp thu mua tại những nhà vườn có số lượng lớn từ 3 - 5 tấn.

Thời gian gần đây, tại nhiều địa phương xuất hiện một loại mực bán với giá rất rẻ, chỉ từ 20.000-40.000 đồng/kg, cao nhất cũng chỉ 50.000-70.000 đồng/kg, thấp hơn nhiều so với giá mực bình thường từ 80.000-200.000 đồng/kg.

“Giá lúa tươi tại ruộng được thương lái mua với giá 4.500 đồng/kg, tăng khoảng 200 đồng/kg so với cách đây 2 tuần. Nhiều nông dân phải chịu cảnh thu hoạch lúa trong mưa dầm dữ dội cũng được an ủi phần nào”, lão nông Phạm Văn Nữa (xã Thường Phước 1, huyện Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp) cho biết vào chiều 14-7.