Hiệu Quả Mô Hình Nuôi Bò Vỗ Béo Giảm Nghèo Ở Phú Tân (An Giang)

Đề án nuôi bò vỗ béo giảm nghèo nằm trong kế hoạch giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015 và kế hoạch giảm nghèo hàng năm của huyện Phú Tân. Theo hình thức hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo vay vốn không lãi suất để nuôi bò, sau 1 năm triển khai, đề án đã thu về những kết quả đáng mừng.
Phần lớn hộ nghèo đều có đặc điểm chung là không có tay nghề, thiếu thông tin nên không tìm được việc làm phù hợp. Một bộ phận hộ nghèo chọn nghề không phù hợp để học, thiếu tư liệu, thiếu điều kiện sản xuất nên không biết cách tổ chức sản xuất có hiệu quả. Đối với những hộ nghèo chí thú làm ăn, họ lại gặp khó ở chỗ thiếu vốn sản xuất nên không thể vươn lên thoát nghèo…
Nắm rõ thực trạng này, UBMTTQ huyện Phú Tân đã đề nghị với Ban Thường trực và Ban Vận động quỹ “Vì người nghèo” tỉnh hỗ trợ 300 triệu đồng từ nguồn tài trợ của Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang và trích 952 triệu đồng từ quỹ “Vì người nghèo” huyện để xây dựng mô hình “Nuôi bò vỗ béo thoát nghèo bền vững”. Bước đầu, huyện chọn 2 xã Phú Lâm và Phú Hiệp làm điểm.
Những hộ nghèo và cận nghèo được hỗ trợ 30 triệu đồng/hộ mua 2 con bò giống, bên cạnh các tiêu chí phải có đối với hộ gia đình, gồm: Có nơi xây dựng chuồng trại, có diện tích đất để trồng cỏ đảm bảo nguồn thức ăn, có lao động… các hộ còn phải đảm bảo các yêu cầu đối với địa phương, như: Có việc làm và thu nhập không thường xuyên; chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương; có con trong độ tuổi đi học phải được đến trường và không tham gia các tệ nạn xã hội.
Theo từng bước nhân dần ra các xã, sau một năm thực hiện đề án, đã có 12 hộ thoát nghèo và 13 hộ thoát cận nghèo, cuộc sống đi vào ổn định. Nhiều hộ chí thú làm ăn đạt hiệu quả tốt, như: Hộ ông Phan Văn Tuấn (Phú Long), nuôi cặp bò 13 tháng, thu lãi 18,9 triệu đồng; hộ ông Cao Văn Cuôi (ngụ cùng xã) nuôi bò 13 tháng lãi 25 triệu đồng; hộ bà Nguyễn Thị Lang (Phú Thành), sau 12 tháng nuôi, lãi 24,4 triệu đồng… Đặc biệt, hộ ông Tăng Văn Bé qua 2 vòng nuôi (13 tháng) lãi 22 triệu đồng, trả 30 triệu đồng vốn và được chương trình “Mái ấm ATV” hỗ trợ cất căn nhà trị giá 62 triệu đồng.
Trong tổng số 41 hộ nghèo và cận nghèo tham gia đề án, đã có 19 hộ trả đủ vốn mượn ban đầu, 3 hộ trả một phần, 38 hộ có nhu cầu mượn vốn thêm một chu kỳ và 1 hộ có nhu cầu mới. Là gia đình thuộc diện cận nghèo, từ khi tham gia nuôi bò vỗ béo, anh Lê Hoàng Chua (xã Hòa Lạc) xem cặp bò là tài sản quý giá nhất. Hàng ngày, ngoài thời gian đi làm thuê, vợ chồng anh tranh thủ cắt cỏ ở khắp nơi, đảm bảo có đủ 120kg cỏ cho bò.
Anh cho biết, mô hình nuôi bò hiện nay rất phổ biến tại địa phương vì đầu ra thuận lợi, lại dễ nuôi, có nhiều thì giờ để làm thêm công việc khác nên đặc biệt hợp với hộ có lao động và thu nhập thấp. Để có đủ nguồn thức ăn cho bò, các hộ phải thuê thêm đất trồng cỏ, bổ sung cho bò ăn thêm tấm cám và các loại cỏ lúa, cỏ bờ… Sau 1 năm tham gia đề án nuôi bò vỗ béo, anh Chua bán cặp bò lời được 18 triệu đồng, hoàn trả vốn cho huyện, đồng thời tiếp tục đầu tư nuôi mới 2 con bò vỗ béo và 1 con nuôi rẻ (nuôi gửi, người nuôi và chủ sở hữu bò chia đôi lợi nhuận).
Rút kinh nghiệm sau 1 năm thực hiện, UBMTTQ huyện Phú Tân đánh giá: Đề án nuôi bò vỗ béo giảm nghèo có tính khả thi cao, đáp ứng nguyện vọng của hộ nghèo, hộ cận nghèo. Người dân đã chuyển dần nhận thức từ việc được “cho” sang “mượn” và có trách nhiệm trả, từ đó các hộ nghèo tích cực hơn trong lao động, cố gắng vươn lên để có cơ hội thoát nghèo. Tuy nhiên, với điều kiện thực tế của các hộ, nếu chỉ dựa vào số tiền lãi bán bò để tái nuôi, quá trình thoát nghèo có thể kéo dài.
Để đề án “Nuôi bò vỗ béo giảm nghèo bền vững” phát huy hiệu quả tốt hơn, UBMTTQ huyện Phú Tân đã kiến nghị: Tăng thêm 1 chu kỳ cho vay đối với các hộ có nhu cầu thoát nghèo bền vững; tăng mức vốn cho mượn từ 35 đến 40 triệu đồng/hộ để mua được 2 con bò giống lớn hơn, sẽ cho tăng trọng nhanh hơn; tăng thời gian chu kỳ nuôi từ 12 tháng lên 18 tháng, nhân rộng mô hình ra toàn huyện.
Nguồn bài viết: http://www.baoangiang.com.vn/Chuyen-muc-khac/Tin-trong-tinh/Hieu-qua-mo-hinh-nuoi-bo-vo-beo-giam-ngheo-o-Phu-Tan.html
Có thể bạn quan tâm

Các loại cây trồng vụ hè thu năm nay có có diện tích tăng so với vụ hè thu 2013 là cây lúa 42.223 ha, đạt 108% kế hoạch, tăng 3,3% so vụ cùng kỳ; cây công nghiệp ngắn ngày 7.311 ha, tăng 11% (trong đó cây mè 5.325 ha, tăng 11% và cây đậu phụng 1.949 ha, tăng 8,1%). Diện tích lúa tăng do chủ động được nguồn nước; hệ thống kênh mương thủy lợi đáp ứng được nguồn nước tưới.

Báo cáo của Bộ NN&PTNT cho thấy: Giá trị XK thủy sản tháng 10 ước đạt 736 triệu USD, đưa giá trị XK 10 tháng đầu năm đạt 6,48 tỷ USD, tăng 19,9% so với cùng kỳ năm 2013. Mỹ vẫn duy trì vị trí là thị trường NK hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 22,25% tổng giá trị XK. 9 tháng đầu năm, XK thủy sản sang hầu hết các thị trường khác như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều tăng với mức tăng tương ứng đạt 7,73%, 43,11% và 24,9%.

Để mở rộng quy mô, áp dụng công nghệ mới nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp cần phải khơi thông nguồn vốn, tăng khả năng tiếp cận tín dụng của người nông dân. Đó đang là mục tiêu đặt ra không chỉ của ngành nông nghiệp mà cả nền kinh tế.

Đi trên con đường lởm chởm ổ gà nối về trung tâm xã, phần nào sẽ hiểu được nỗi vất vả của người dân ở ấp Long Hòa B. Ở đây, có đến 2 tuyến đường xuống cấp, mỗi tuyến dài 6-7km. Người dân bức xúc vì ngày ngày đi lại, đưa đón con cháu đi học, chuyện té xe trở thành bình thường khi buộc phải đi qua đoạn đường này.

Trong số 7 xã điểm xây dựng NTM của tỉnh, của huyện giai đoạn 2010-2015 ở huyện Xuân Trường, đến nay đã có 1 xã đạt chuẩn NTM, 2 xã đạt 16 tiêu chí, còn lại đạt 11-15 tiêu chí. Để nỗ lực thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM, huyện Xuân Trường chỉ đạo các xã tiếp tục đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phục vụ phát triển sản xuất và đời sống nhân dân.