Trang chủ / Hải sản / Tôm thẻ chân trắng

Hiện tượng pH thấp và biện pháp khắc phục

Hiện tượng pH thấp và biện pháp khắc phục
Ngày đăng: 12/12/2014

Các thông số môi trường được biết đến như độ pH (độ phèn), nhiệt độ, hàm lượng oxy, độ cứng, độ kềm…trong đó thông số độ phèn và sự biến động liên tục của thông số này, trực tiếp gây ra những đợt tress cho vật nuôi thủy sản.

Ảnh hưởng rõ nét nhất là khi độ phèn tăng cao, làm nồng độ NH3 (khí Amoniac) trong nước tăng cao, trực tiếp gây độc cho tôm, cá nuôi. Khi độ phèn thấp, làm hàm lượng H2S (khí sulfuahydro) trong ao nuôi tăng cao, trực tiếp gây độc cho vật nuôi thủy sản. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đề cập đến hiện tượng pH thấp, những nguyên nhân, ảnh hưởng của hiện tượng này, và một số giải pháp khắc phục.

Độ phèn, hiểu rộng rãi hơn là biểu thị hàm lượng ion H+ (độ acid) trong môi trường nước ao nuôi thủy sản. Mức độ biểu thị dao động từ 0-14, trong đó ở mức độ phèn bằng 7 được gọi là trung tính, đa số các loài thủy sản đều sống và phát triển tốt ở nguồn nước có pH= 7 (trung tính). Nồng độ H+ biến thiên trong ao nuôi hình thành từ một số nguyên do: sự thủy phân Fe3+ và Al3+, từ quá trình oxy hóa hợp chất Fe (sắt), và S (lưu huỳnh), từ quá trình phân hủy hữu cơ trong ao do dư thừa chất dinh dưỡng, từ quá trình hô hấp của vi sinh vật…Nói cách khác, nguyên do pH thấp trong ao nuôi thủy sản vì hàm lượng H+ sinh ra quá nhiều, liên tục, với nồng độ tăng dần theo mức độ ô nhiễm của ao nuôi, theo sự phát triển, gia tăng mật độ nhanh của tảo.

Khi pH thấp, làm giảm khả năng vận chuyển oxy của hemoglobin (tế bào hồng cầu trong cơ thể các loài thủy sản), các bộ phận trên cơ thể như mang, da tiết ra nhiều nhớt, chất nhầy. Khi pH thấp, mang có hiện tượng sưng tấy, khả năng đề kháng trước bệnh tật của vật nuôi thủy sản trong ao giảm rõ rệt, khi đó nồng độ H2S sẽ tăng, độc và nguy hiểm hơn so với khi pH cao.

Như vậy, để giải quyết vấn đề nguồn nước có pH thấp trong ao nuôi thủy sản, có nhiều giải pháp khác nhau. Trước tiên, những ao thuộc vùng phèn không nên phơi ao quá khô dưới ánh nắng mặt trời. Ngoài giải pháp bón vôi và phơi ao, làm tăng độ thông thoáng, khoáng hóa lớp bùn đáy ao, có thể bón thêm phân. Trước khi lấy nước vào ao nuôi, dùng phân chuồng hoai, bón nơi đáy ao. Lượng phân chuồng dùng từ 25-30kg/100m2 đáy ao. Hoặc có thể dùng chế phẩm sinh học để cải thiện, nâng nồng độ pH ao nuôi lên. Cung cấp chế phẩm sinh học nhằm kích thích vi sinh vật có lợi phát triển gia tăng số lượng, chủng loại. Hạn chế tối đa tác hại do các vi sinh vật gây hại, các khí độc được tạo ra từ quá trình phân hủy hữu cơ.

Phân giải thức ăn, chất hữu cơ tích tụ đáy ao nuôi. Mục đích trực tiếp của chế phẩm sinh học nhằm duy trì chất lượng nước, đáy ao, nguồn nước ao nuôi được sạch hơn (chất lượng nước ao nuôi thủy sản phụ thuộc vào số lượng vi khuẩn phân hủy, nhiệt độ, môi trường nước, hàm lượng oxy trong ao). Mục đích gián tiếp của chế phẩm sinh học nhằm hạn chế tác động của bệnh đốm trắng, đầu vàng đối với tôm sú, tôm thẻ chân trắgn, giảm nhu cầu thay nước ao nuôi, ổn định và duy trì sự phát triển của tảo, tăng sự phát triển phiêu sinh động, giảm thiểu sự biến động pH, ổn định chất lượng nước, giúp tôm, cá khỏe mạnh, phát triển nhanh, ít nhiễm bệnh.

Các loại chế phẩm hiện nay trên thị trường rất nhiều, tuy nhiên nên chọn loại chế phẩm sinh học có nguồn gốc là các vi sinh vật sống, được làm từ các chủng như Nitrobacteria, Nitrosomonas, Bacillus…

Ngoài ra có thể dùng các hạt trao đổi Ion để nâng pH lên, tuy nhiên trong ao nuôi tôm, do diện tích quá lớn, nếu dùng loại này, chi phí rất lớn, đội giá thành sản xuất lên cao, mô hình nuôi sẽ không thu được kết quả tốt về mặt kinh tế.

Khắc phục pH thấp trong ao
Một ao nuôi tôm thẻ chân trắng sử dụng thiết bị sục khí đáy để tăng DO trong nước

Có thể bạn quan tâm

Bệnh vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei – EHP Bệnh vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei – EHP

Bệnh vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei đã được phát hiện ở Thái Lan vào những năm 2006. Tuy nhiên tác hại của bệnh vi bào tử trùng trên tôm chưa được chú ý lắm. Cho đến khi có sự xuất hiện của dịch bệnh EMS/AHPND trên diện rộng ở châu Á thì bệnh do EHP gần như không còn được nhiều người quan tâm nữa. Tuy nhiên, bệnh EHP vẫn âm thầm dịch chuyển và xâm nhập vào các nước.

15/03/2015
Hiệu quả của quy trình nuôi tôm sử dụng chế phẩm sinh học Hiệu quả của quy trình nuôi tôm sử dụng chế phẩm sinh học

Các năm qua, nghề nuôi tôm phát triển nhanh ở một số vùng, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân. Nhưng vài năm trở lại đây đã bộc lộ nhiều bất trắc, rủi ro, môi trường ô nhiễm, dịch bệnh lây lan, thua lỗ kéo dài ở một số nơi, một số vùng gây nhiều tác động xấu đến kinh tế xã hội của địa phương, lại còn có nguy cơ diện tích đất đang sử dụng nếu không phát triển nuôi trồng thủy sản thì khó mà trở lại canh tác nông nghiệp, hậu quả xảy ra sẽ rất khó lường.

14/03/2015
Xử lý tôm nuôi khi có những trận mưa trái vụ Xử lý tôm nuôi khi có những trận mưa trái vụ

Theo dự báo, thời gian tới sẽ có những trận mưa trái vụ. Để có được vụ nuôi tôm hiệu quả việc hạn chế sự biến đổi các yếu tố môi trường nuôi cần được đặt lên hàng đầu.

14/03/2015
Tăng cường phòng ngừa dịch bệnh tôm nuôi Tăng cường phòng ngừa dịch bệnh tôm nuôi

Theo Trung tâm Khí tượng thủy văn, hiện nay, thời tiết ngày càng khô hanh, nhiệt độ nóng, xâm nhập mặn ngày càng sâu. Đồng thời, môi trường nước nuôi thủy sản bị ô nhiễm nghiêm trọng. Thực trạng đó rất bất lợi cho nghề nuôi thủy sản, nhất là tôm.

14/03/2015
Sản xuất con giống tôm thẻ chân trắng Sản xuất con giống tôm thẻ chân trắng

Bộ Nông nghiệp- Phát triển nông thôn đã chính thức cho phép chuyển đổi sang nuôi tôm thẻ chân trắng. Theo thống kê của ngành Thủy sản, năm 2008 cả nước đạt sản lượng 50.000 tấn tôm thẻ chân trắng. Dự kiến năm 2009 sản lượng sẽ tăng lên gấp 10 lần.

14/03/2015