Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Hiện Thực Hóa Điều Không Tưởng Từ Sức Mạnh Niềm Tin

Hiện Thực Hóa Điều Không Tưởng Từ Sức Mạnh Niềm Tin
Ngày đăng: 11/10/2014

Canh tác trên đất đồi mới khai hoang khô cằn sỏi đá đã là điều khó, có thành quả nữa thì thật là điều “không tưởng”. Sau nhiều nỗ lực, cố gắng, chính quyền và người dân tái định cư (TĐC) thị xã Mường Lay đã hiện thực hóa được điều “không tưởng” ấy bằng chính sức mạnh từ niềm tin.

Thực hiện TĐC đã được gần 4 năm, cho đến nay vấn đề đất sản xuất vẫn là dấu hỏi lớn mà chính quyền và người dân thị xã Mường Lay còn trăn trở. Thời gian qua, địa phương đã nỗ lực rất lớn, với nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn trên, nhưng lại gặp phải không ít vướng mắc phát sinh.

Theo kế hoạch, Mường Lay sẽ giao đất cho trên 1.000 hộ nông nghiệp thuộc 16 tổ, bản. Cho đến thời điểm hiện tại, gần như đã hoàn thành về số lượng, với gần 50ha đất bán ngập giao cho 360 hộ thuộc 6 bản: Nậm Cản, Quan Chiên (phường Na Lay), bản Bắc 1, Bắc 2, Na Ka và bản Ổ (xã Lay Nưa) để sản xuất 1 vụ/năm; bàn giao thực địa xong khoảng 30ha đất khai hoang cho hơn 700 hộ nông nghiệp. Trên thực tế, đối với diện tích bán ngập, người dân đã sản xuất ổn định được một vụ/năm với năng suất khả quan.

Mặc dù vậy, vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu thực tế nên thị xã xác định, cải tạo và sản xuất trên đất mới khai hoang mới là kế sách lâu dài và ổn định. Tuy nhiên, “vạn sự khởi đầu nan”, không có sự khởi đầu nào mà không gặp gian nan, thử thách.

Phần lớn diện tích mới khai hoang nằm ở các vị trí có độ dốc lớn, chất đất xấu, chủ yếu là sỏi đá, đòi hỏi phải mất nhiều công sức cải tạo mới có thể đưa vào sản xuất. Bãi khai hoang thuộc công trình thủy lợi Na Tung (xã Lay Nưa) là một ví dụ. Bãi rộng gần 14ha, sau khi tiến hành chia đất cho 295 hộ dân đã bị bỏ hoang gần 1 năm.

Sau đó, tháng 3/2013, thị xã vận động người dân đưa cây ngô vào trồng nhưng đều không thể sinh trưởng. Tại khu vực bãi tưới bản Đớ, cây đậu tương cũng “phụ công người” sau thời gian không lâu đưa vào trồng.

Tất cả những “thất bại” kể trên, ngoài tác động của những yếu tố khách quan nhắc đến trước đó, thì quan trọng hơn cả là thiếu lòng tin từ phía người dân. Chính bởi vậy, họ đã không mặn mà, không nỗ lực hết sức để bắt tay cùng chính quyền địa phương tháo gỡ khó khăn.

Xác định được cốt lõi của vấn đề, ngoài việc chỉ đạo sát sao các phòng, ban chức năng, nhất là Trạm Khuyến nông – Khuyến ngư hỗ trợ người dân, thì thị xã đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động. Kèm theo đó là những chính sách khuyến khích, ưu đãi với những hộ “dám làm”.

Bước chuyển biến mới được đánh dấu vào thời điểm tháng 5/2014, khi thị xã mạnh dạn sử dụng gần 360 triệu đồng từ nguồn ngân sách địa phương để đầu tư trồng thử nghiệm mô hình lúa chịu hạn PT13 và các cây họ đậu cải tạo đất, trên diện tích 6ha, thuộc các bãi tưới: Na Tung, bản Mo và bản Đớ, với hơn 200 hộ tham gia.

Đi đầu là gần 100 hộ dân thuộc 2 bản Nghé Toong và Chi Luông 1, nhận đất canh tác trên bãi khai hoang số 7, thuộc công trình thủy lợi bản Đớ, phường Na Lay. Theo chia sẻ của ông Mào Văn Đợi, Trưởng bản Chi Luông 1, đồng thời cũng là một trong những hộ tham gia mô hình thì những ngày đầu nhận đất, phần lớn người dân chưa thật sự đặt niềm tin.

“Nhìn đâu cũng chỉ thấy sỏi đá, khô cằn, để canh tác đã khó, có thành quả nữa thì quả thật là điều “không tưởng” – ông Đợi tâm sự. Nhưng do nhận được sự động viên và khuyến khích của chính quyền địa phương, ông cùng 42 hộ dân trong bản quyết định “liều”, bỏ công sức để bắt tay cải tạo đất trồng lúa.

Để tạo động lực cho các hộ dân, Trạm Khuyến nông – Khuyến ngư thị xã cử cán bộ xuống cùng khai hoang, hướng dẫn người dân làm đất, ủ phân xanh, ka ly, vôi... trước khi tiến hành gieo trồng; đồng thời hỗ trợ 100% giống, phân bón và tiền công cải tạo đất.

Trải qua hơn 5 tháng kiên trì với không ít khó khăn, nhiều lúc tưởng chừng như thất bại, nhất là tại khu vực bãi thủy lợi Na Tung, khi cây lúa bắt đầu trổ bông đã có biểu hiện vàng lá, bộ rễ bị thối. Nhưng ngay sau đó đã được xử lý kịp thời.

Đến nay, qua tổng kết, đánh giá toàn bộ diện tích gieo trồng đều cho thu hoạch với năng suất bình quân ước đạt 35 – 42 tạ/ha. Tại khu vực bãi thủy lợi bản Đớ, do nhận được sự đồng thuận, hợp tác cao từ phía người dân và tuân thủ nghiêm ngặt quy trình gieo trồng, chăm sóc nên năng suất ước đạt 42 – 45 tạ/ha.

Riêng đối với diện tích 3ha trồng các loại cây họ đậu đều sinh trưởng phát triển tốt và tạo ra nguồn sinh khối lớn, hỗ trợ đắc lực trong công tác cải tạo đất. Dự kiến, năm 2015, thị xã sẽ tiếp tục cho triển khai trồng ngô và lúa chịu hạn trên diện tích này.

Tuy nhiên, thách thức tiếp tục được đặt ra khi nước tưới – yếu tố hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp lại đang là vấn đề nan giải ở đây. Mặc dù các công trình thủy lợi đều đã được đầu tư, song do thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, sạt lở, dẫn đến hư hỏng hoặc không đảm bảo năng lực tưới tiêu. Ngay tại những khu vực được cho là thuận lợi cũng gặp phải khó khăn này, hoạt động sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.

Ông Vũ Xuân Linh, Phó Chủ tịch UBND thị xã cho biết: Vấn đề này hiện đang là mối quan tâm ưu tiên hàng đầu của thị xã và cũng đã được đưa ra tại nhiều cuộc họp, do cần nguồn vốn lớn nên chưa được giải quyết triệt để. “Song không phải vì thế mà chúng tôi khoanh tay đứng nhìn. Chính quyền sẽ phải tiếp tục sát cánh cùng bà con và đang đưa ra nhiều giải pháp để nhanh chóng khắc phục, hạn chế sụt sạt đất đá ảnh hưởng đến hệ thống mương dẫn.

Tuy nhiên, về lâu dài, với nguồn lực của thị xã thì không thể đảm bảo nên rất cần sự vào cuộc của các ngành chuyên môn, trong việc tiếp tục phân tích mẫu đất để có biện pháp khắc phục, xử lý đất mới khai hoang; đồng thời bổ sung hạng mục kênh mương nội đồng, mương tiêu nước... vào các công trình TĐC. Được vậy, bài toán thiếu đất sản xuất hậu TĐC sẽ sớm được giải quyết và ổn định đời sống người dân” – Ông Linh khẳng định.

Có thể nói, những kết quả nhìn thấy của mô hình đã thực sự mang lại chuyển biến rõ nét, là tín hiệu đáng mừng, mở thêm một lời giải mới cho bài toán thiếu đất sản xuất TĐC thị xã lâu nay. Quan trọng hơn, điều này đang dần củng cố thêm niềm tin của những người dân đối với hướng đi mà chính quyền nơi đây đang nỗ lực tìm kiếm và xây dựng.

Đứng trên những thửa ruộng vàng óng sắp cho thu hoạch, niềm vui hiện rõ trên khuôn mặt của hơn 200 hộ dân TĐC sau nhiều năm vất vả, xuôi ngược tìm hướng mưu sinh. Giờ đây họ hiểu, niềm tin đã giúp họ thu về những “trái ngọt”...


Có thể bạn quan tâm

Hơn 1.700 Tỉ Đồng Cho Người Nuôi Cá Tra Hơn 1.700 Tỉ Đồng Cho Người Nuôi Cá Tra

UBND tỉnh An Giang vừa có công văn đề nghị Chính phủ cho phép Ngân hàng Phát triển VN tham gia tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp trong sản xuất, xuất khẩu cá tra.

09/10/2012
Nuôi Tôm Theo Hướng VietGAP Hiệu Quả Bền Vững Ở Cà Mau Nuôi Tôm Theo Hướng VietGAP Hiệu Quả Bền Vững Ở Cà Mau

Khi sản phẩm xuất khẩu ngày càng chịu sự kiểm tra gắt gao của các nước trên thế giới, giá tôm sú và tôm thẻ bấp bênh, quy trình sản xuất sạch của mô hình nuôi tôm công nghiệp và quảng canh cải tiến theo hướng VietGAP tạo bước đột phá cho nền kinh tế mũi nhọn Cà Mau phát triển bền vững.

18/10/2012
Nỗi Niềm Của Nông Dân Trồng Chè Nỗi Niềm Của Nông Dân Trồng Chè

Bóc một họp trà líp ton giá vài chục nghìn đồng, nếu vào nhà hàng, chỉ cần nhúng một tép trà vào một bộ tách đẹp, thêm chút ít chanh đường, thế đã là một thức nhấm cao cấp với giá tương đối cao

18/02/2011
Chỉ Có 5,2% Trại Sản Xuất Cá Tra Giống Đã Qua Chọn Lọc Chỉ Có 5,2% Trại Sản Xuất Cá Tra Giống Đã Qua Chọn Lọc

Theo Bộ NN&PTNT, hiện nay trong 152 trại sản xuất cá bột có đàn cá bố mẹ mới chỉ có 5,2% trại sản xuất cá bố mẹ đã qua chọn lọc di truyền từ Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, trên 31% cơ sở sản xuất chọn mua cá bố mẹ từ nguồn cá tự nhiên.

30/10/2012
Mô Hình Nuôi Cá Lóc Bằng Thức Ăn Công Nghiệp Mô Hình Nuôi Cá Lóc Bằng Thức Ăn Công Nghiệp

Gần đây, phong trào nuôi cá lóc thương phẩm ở Bình Thuận phát triển mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế ổn định cho người dân địa phương. Tuy nhiên, đối với nghề nuôi cá lóc hiện nay, khó khăn lớn nhất là quản lý nguồn nước và nguồn thức ăn cá tạp tươi đảm bảo chất lượng và số lượng.

16/01/2012