Gừng Núi Đá Loài Cây Quý Hiếm

Gừng đá là loài cây quý hiếm của Bắc Kạn. Tuy nhiên việc khai thác ồ ạt ngoài tự nhiên, trồng manh mún đã khiến giống gừng này đứng trước nguy cơ bị thoái hóa. Thử nghiệm khoa học thành công trong việc trồng gừng đá mở ra hướng bảo tồn và phát triển kinh tế từ giống cây quý này.
Không ít người dân Bắc Kạn không lạ gì với việc xuyên rừng núi đá kiếm gừng đá. Những búi gừng cheo leo vách đá, khi bán có giá cao, vì thế càng bị khai thác mạnh. Việc trồng loại cây này cũng được nhiều người dân thực hiện nhưng vẫn còn manh mún.
Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã đề xuất Bộ Khoa học và Công nghệ hỗ trợ kinh phí để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu bảo tồn, phục tráng cây gừng đá. Viện Di truyền nông nghiệp Việt Nam là đơn vị phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ Bắc Kạn thực hiện dự án với nội dung “Nghiên cứu đánh giá, nhân nhanh giống và kỹ thuật trồng gừng đá Bắc Kạn”.
Tiến sĩ Đỗ Tuấn Khiêm- Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Bắc Kạn cho biết, nghiên cứu nhân giống gừng đá có tính chất đặc sản khu vực, không chỉ bảo tồn phát triển nguồn gen gừng bản địa mà còn có thể khai thác tiềm năng của chúng phục vụ công tác chọn tạo giống gừng mới trong tương lai và phát triển kinh tế.
Cây gừng đá đã được xếp vào nhóm giống cây thực phẩm quý hiếm cần được bảo tồn theo Quyết định 80/2005/QĐ- BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn từ năm 2005. Giá bán 01 kg gừng đá hiện tại từ 500.000 - 800.000đ là cơ sở để tin rằng đây là một tiềm năng phát triển kinh tế rất khả thi.
Sở Khoa học và Công nghệ cùng Viện Di truyền nông nghiệp đã tiến hành điều tra tình hình sản xuất gừng đá tại Liêm Thủy và Xuân Dương (Na Rì). Tại mỗi xã lựa chọn 50 hộ dân tham gia mô hình trồng gừng đá. Từ đó, tiến hành đánh giá kiểu hình, kiểu gen; nhân nhanh giống gừng đá bằng công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật (Invitro).
Qua 01 năm triển khai, dự án đã hoàn thành điều tra, khảo sát tình hình sản xuất giống gừng đá tại xã Liêm Thủy và Xuân Dương; đánh giá, chọn lọc các cá thể gừng đá trên đồng ruộng; nhân giống thành công giống gừng đá Bắc Kạn bằng phương pháp Invitro; phân tích các thành phần chính của giống gừng đá Bắc Kạn nhằm đánh giá giá trị nguồn gen của giống tại vùng nghiên cứu.
Mô hình trồng 500m2 diện tích gừng tại núi đá trong đó 200m2 trồng từ củ của địa phương và 300m2 trồng từ cây nuôi cấy bằng phương pháp Invitro cho thấy cây sinh trưởng phát triển tốt. Chiều cao cây trồng từ cây nuôi cấy mô đạt 15 - 18 cm, được 8 - 10 lá và đã đẻ 3 - 5 nhánh. Gừng trồng từ củ của địa phương cây sinh trưởng phát triển tốt, mỗi khóm từ 6 - 10 nhánh.
Theo đánh giá của dự án, hiện tại nhu cầu về sản xuất gừng đá làm dược liệu và thực phẩm rất cao, cung không đủ cầu. Giống được triển khai không những phục vụ nhu cầu cho riêng Bắc Kạn mà còn cho các vùng miền núi có điều kiện sinh thái tương tự. Về lâu dài, với tiềm năng cũng như sự chủ động về nguồn giống thì tính toán xây dựng thị trường tiêu thụ để đưa cây gừng đá trở thành đặc sản mang lại giá trị kinh tế cao là điều cần thiết và hết sức khả thi.
Có thể bạn quan tâm

Trên cánh đồng ngày xưa, người nuôi tôm Tịnh Kỳ (TP. Quảng Ngãi) từng khánh kiệt vì nguồn nước ô nhiễm, tôm chết hàng loạt. Nhưng rồi, trong cái khó người dân đã mạnh dạn đầu tư kiên cố trại, hồ thả nuôi cá, tôm kết hợp cua ở ba tầng nước và nhiều hộ đã thành công. Nay họ đang chăm cho cá, cua để kịp xuất bán trong dịp Tết Nguyên đán Ất Mùi.

Nhưng giờ đã lỗ gần 50 triệu đồng. Ông Vũ cho biết thêm, ông đầu tư vốn thả nuôi 860 con cá bớp giống từ tháng 8-2014. Nhờ chăm sóc kỹ nên cá nuôi phát triển rất tốt. Tuy nhiên, khi cá có trọng lượng từ 4 - 5kg thì bắt đầu có dấu hiệu bỏ ăn và chết từ từ. Mỗi ngày có từ 4 đến 5 con chết, thậm chí có ngày lên đến chục con.

Để tổ chức kiểm soát tốt dịch bệnh trên tôm nuôi nước lợ, giảm thiểu thiệt hại cho người nuôi tôm và giảm thiểu tồn dư kháng sinh trong sản phẩm thủy sản, Bộ NN&PTNT đã chỉ đạo tăng cường công tác thú y thủy sản với mục tiêu trong năm 2015 sẽ tập trung phòng, chống bệnh đốm trắng và bệnh hoại tử gan tụy cấp trên nuôi tôm nước lợ.

Bãi biển Kim Sơn những ngày đầu năm 2015 khá trầm lắng. Vụ tôm năm trước, dịch bệnh đốm trắng, hoại tử gan tụy “làm mưa làm gió” vùng thủy sản. Làm ăn thua lỗ, chủ ao, đầm sợ mầm bệnh vẫn luẩn quẩn trong nước nên chẳng mặn mà đầu tư thả tôm giống.

Năm 2014, ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) tỉnh Nghệ An được đánh giá thắng lợi với tất cả các chỉ tiêu đều đạt và vượt: Sản lượng nuôi trồng đạt gần 45.500 tấn, diện tích NTTS đạt trên 23.600 tấn, tổng giá trị sản xuất đạt khoảng 1.950 tỷ đồng. để phát huy tiềm năng lợi thế hơn nữa, ngành xác định cần chú trọng hơn nữa khâu sản xuất, kiểm soát con giống.