Giữ Nghề Nuôi Cá Basa Cho Quê

“Cá basa mang lại nguồn sinh kế cho cư dân miền hạ lưu Mekong bao đời nay, sẽ mãi là nguồn sống của cư dân vùng ĐBSCL”.
Đó là lý do chị Nguyễn Thị Kim Loan (Út Loan) ở ấp Long Thạnh 2, xã Long Hoà, huyện Phú Tân, An Giang quyết tâm giữ nghề gia truyền nuôi cá basa.
Sinh ra trong gia đình nhiều đời nuôi cá basa, từ nhỏ Út Loan đã gắn bó với cá basa. “Ông bà nội nuôi cá, ba mẹ nuôi cá, Út Loan nghiền nuôi cá basa, nghiền cái nết ăn, cái nước da trắng của con basa. Càng nghiền hơn nữa là nghề này có cái gì đó phiêu lưu, có lẽ là do cá basa được sinh ra tận Tonle Sap (Biển Hồ Campuchia), trôi dạt từ trên đó xuống dưới này hàng ngàn cây số mà nó vẫn khỏe”-Út Loan tâm sự cơ duyên khiến chị gắn bó với nghề nuôi cá basa.
Trước đây, người nuôi cá basa đa số rất giàu có. Nhưng cũng chỉ có những ai giàu có mới dám nuôi cá basa vì vốn đầu tư ban đầu rất lớn. Mỗi lồng bè chi phí từ vài trăm triệu đến cả tỷ bạc hoặc hơn. “Thời ông nội, thời cha tôi nuôi cá rất thuận lợi, chỉ có lời và lời. Nhưng cuối thời cha tôi, rồi đến thời tôi thì cá basa thăng trầm dữ lắm, nhất là từ khi phong trào nuôi cá tra đăng quầng ra đời, basa rớt giá thê thảm, nhiều lần tôi định bỏ nghề nhưng không bỏ được” – chị Út Loan tâm sự.
Ngoài nuôi cá basa, mỗi năm chị còn thu lãi trên 100 triệu từ trồng 1,5ha lúa 3 vụ. Và hàng chục năm nay, đều đặn năm nào chị cũng đóng góp các hoạt động xã hội từ thiện tại địa phương từ 30-40 triệu đồng...
Đã đầu tư lồng bè, đầu tư tâm huyết và nhất là kinh nghiệm tích lũy rất nhiều, bây giờ bỏ ngang uổng lắm. Chị cũng cho rằng, khủng hoảng chỉ là tạm thời, phải kiên trì tìm cách vượt qua. “Cá basa đã mang lại nguồn sinh nhai cho cư dân hạ lưu vùng hạ lưu Mekong biết bao đời nay. Tôi tin thiên nhiên đã sắp đặt rồi, đó là sản vật trời cho, khó lòng mà bỏ”-chị khẳng định.
“Thị trường cá da trơn truyền thống cũng là thị trường truyền thống trong nước. Ai lo xuất khẩu chứ tôi thì chỉ nhắm thị trường trong nước”- chị Loan nói. Giữ nghề nuôi cá basa, chị đã thành công, không bị rơi vào những cơn khủng hoảng cá tra liên tiếp. Hàng chục năm nay, chị đang làm chủ bốn bè nuôi cá basa loại lớn, với tổng sản lượng mỗi năm từ 200-300 tấn cá thịt, doanh thu từ 5- 6 tỷ đồng, lãi khoảng 500 triệu đồng/năm. Chị tâm sự: “Dù không lãi lớn, nhưng tôi vẫn ăn chắc đều đều từ cá basa”.
Có thể bạn quan tâm

Riêng tại huyện An Phú, những địa phương trước đây vốn có nguồn thủy sản mùa nước dồi dào như: Phước Hưng, Quốc Thái, Khánh An, Phú Hữu, Vĩnh Hội Đông… thì hiện nay chỉ có vài điểm chợ bán với số lượng ít cá đồng, chủ yếu người dân vẫn phải ăn cá nuôi.

Việc sản xuất nhân tạo giống nhiều loài cá quý của Trung tâm Thủy sản tỉnh Tuyên Quang thành công đã giải quyết được vấn đề về con giống, cũng như bảo vệ được nguồn lợi cá quý tự nhiên đang có nguy cơ cạn kiệt.

Có thể so sánh mô hình nuôi trồng thủy sản kiểu mới này ở huyện Bình Đại (Bến Tre) cũng giống như mô hình chăn nuôi bằng đệm lót sinh học trong chăn nuôi heo, gà ở các huyện trong tỉnh. Mô hình này có nhiều ưu điểm là ít vốn, an toàn, ăn chắc, bảo vệ môi trường, phù hợp với bà con nông dân khi không đủ vốn để nuôi tôm theo hướng công nghiệp.

Với trên 20km bờ biển, vùng bãi triều rộng lớn và nguồn phù sa, vi sinh vật, vi khoáng núi đá vôi vô tận của 2 cửa sông Ninh Cơ và sông Đáy đổ về đã tạo cho huyện Nghĩa Hưng (Nam Định) nhiều lợi thế trong nuôi trồng thủy, hải sản; đặc biệt thích hợp cho sự phát triển, sinh trưởng của cá bống bớp.

Các hộ dân nghèo không có đất sản xuất nông nghiệp tận dụng các khoản đất trống xung quanh nhà hoặc dưới sàn nhà để thiết kế bể lót bạt ny-lon nuôi lươn, nâng cao thu nhập cho gia đình.