Giống Lúa Chịu Hạn, Chống Rét

Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện có một diện tích đất trồng lúa dựa vào nguồn nước trời và thực tế thu hoạch khá bấp bênh. Giống lúa P6 đột biến bén duyên với mảnh đất Quảng Nam bước đầu đem lại tín hiệu khả quan cho người nông dân.
Đây là giống lúa do tiến sĩ Hà Văn Nhân - Trung tâm Nghiên cứu và phát triển lúa thuần (Viện Cây lương thực - thực phẩm Việt Nam) chọn tạo, được trồng thí điểm tại thôn An Tây (xã Quế Thọ, Hiệp Đức). Qua khảo sát thực địa, huyện Hiệp Đức chọn các cánh đồng Bàu và Hố Chuối để trồng thử nghiệm. Nông dân Nguyễn Việt Hùng (tổ 1, thôn An Tây) cho biết: “Vì những cánh đồng trên này không có nước tưới nên lâu nay trồng cây lúa lúc được ít, lúc trắng tay.
Được chính quyền địa phương khuyến khích trồng giống lúa mới chịu được hạn, chúng tôi phấn khởi tham gia trồng thử nghiệm”. Theo đó, cùng thời vụ sản xuất giống lúa thử nghiệm, nhóm hộ nông dân thôn An Tây dành một phần diện tích ruộng gieo sạ các giống lúa khác như Xi 23, X 21, BC 15… để theo dõi và đối sánh. Với giống P6 đột biến, nông dân được hướng dẫn dùng thuốc cruiser ủ giống từ đầu để tránh bị bọ trĩ gây hại cho lúa non và áp dụng phương pháp sạ hàng với mật độ 3 kg/sào.
Với giống lúa P6, những cánh đồng nước trời xơ xác, trơ trụi trước đây ở An Tây được “thay áo” bởi những bông lúa chắc nịch. Lão nông Trần Văn Lãm (tổ 3, thôn An Tây) không giấu được niềm vui: “Với giống lúa mới này, đám ruộng gần 1,5 sào tôi gặt được hơn 3 tạ thóc. Mấy năm trước trồng đủ thứ giống mà thu hoạch cứ lẹt xẹt, chủ yếu cắt về cho trâu, bò”. Thống kê năng suất qua vụ đông xuân này, giống lúa P6 đột biến đạt trung bình 45 tạ/ha. Riêng các hộ Cao Văn Hai, Trần Thị Đề (thôn An Tây), Nguyễn Văn Xuân (thôn Phú Cốc Tây) vừa thu hoạch cách đây vài ngày cho năng suất 50 - 60 tạ/ha.
Tốt hơn hẳn những giống lúa trước đây, đặc biệt là khả năng “chịu hạn, chống rét”, P6 đột biến góp phần tạo niềm tin cho nông dân xã Quế Thọ nói riêng và huyện Hiệp Đức nói chung. Người nông dân hoàn toàn yên tâm sản xuất giống lúa này trên những cánh đồng nghèo chất dinh dưỡng, không chủ động nguồn nước tưới. Đây là giống lúa có thời gian sinh trưởng ngắn (85 ngày trong vụ hè thu; 95 ngày trong vụ đông xuân), ít sâu bệnh. Chất lượng gạo tốt, ngon cơm, rất phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng hiện nay.
Ông Huỳnh Năm - Trưởng phòng NN&PTNN Hiệp Đức nói: “Qua quá trình nghiệm thu, tổng kết, chúng tôi đánh giá cao giống lúa này. Năng suất rất ổn định, tạo điều kiện để nông dân tăng thêm sản lượng thu hoạch”. Còn ông Nguyễn Hoa - Phó Chủ tịch UBND huyện Hiệp Đức bày tỏ: “Giống lúa P6 đột biến chịu hạn rất cao, giảm phân bón, chi phí thấp. Thời gian tới chúng tôi tiếp tục nhân rộng mô hình, chuyển giao cho nông dân trồng trên khoảng 900ha”.
Có thể bạn quan tâm

Cá tầm đã được nuôi ở nhiều nơi trong cả nước, nhưng với tỉnh Quảng Ngãi thì đây là mô hình đầu tiên được nuôi tại huyện miền núi Sơn Tây. Mô hình do Trạm Khuyến nông huyện Sơn Tây thực hiện và được kỳ vọng sẽ mở ra triển vọng về một giống vật nuôi mới mang lại nhiều thay đổi hữu ích cho cuộc sống người dân.

Chỉ vào đàn heo sữa 14 con vừa được 32 ngày tuổi, bà Nguyễn Thị Xanh ở xã Hành Thịnh (Nghĩa Hành) cho biết: “Mấy hôm nay thương lái cứ ra vào ngắm heo, rồi hỏi mua với giá 750.000 đồng/con nhưng tôi chưa chịu bán. Tôi tính để thêm một tuần nữa, thế nào nó cũng được trên 800 ngàn đồng/con”.

Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 50 làng nghề và ngành nghề sản xuất tập trung, trong đó có 10 làng nghề và ngành nghề truyền thống được UBND tỉnh Quảng Trị công nhận. Một số sản phẩm như nước mắm, chè vằng, tiêu Cùa, rượu Kim Long… đã có thương hiệu thu hút được nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh. Toàn tỉnh có hơn 6.800 lao động làm việc trong các làng nghề và ngành nghề tập trung mỗi năm tạo ra giá trị sản phẩm hàng trăm tỷ đồng.

Trước nhu cầu rau sạch của người tiêu dùng đang ngày càng tăng cao, người trồng rau đã dần nâng cao ý thức canh tác và trình độ thâm canh để sản xuất rau sạch, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường. Việc trồng rau sạch đã được nông dân trồng quanh năm tạo ra nguồn thu khá ổn định, góp phần nâng cao thu nhập và tạo việc làm thường xuyên, đặc biệt rút ngắn đáng kể thời gian nông nhàn.

Bước đầu cho thấy việc xây dựng mô hình chăn nuôi bò sinh sản ở bản Poọng đã nâng cao kỹ thuật chăn nuôi bò, tạo thêm việc làm và nguồn thu nhập cho người dân.