Giống Lạc Mới Đạt 4,5 Tấn/ha

Do vậy lạc được coi là cây đậu đỗ chính tham gia vào các công thức luân canh cây trồng mang tính bền vững và thân thiện với môi trường.
Hải Dương là tỉnh có diện tích lạc không lớn, khoảng 1.300 ha/năm nhưng cây lạc có vai trò quan trọng đối với thu nhập của người nông dân ở một số huyện như Chí Linh, Nam Sách, Kinh Môn... Năng suất lạc bình quân của cả tỉnh mới chỉ đạt gần 1,5 tấn/ha, thấp hơn so với năng suất bình quân của cả nước và thấp hơn nhiều so với Nam Định (3,7 tấn/ha), Hà Nam (2,6 tấn/ha). Nguyên nhân là do thiếu giống có năng suất cao, có tính chống chịu, thích hợp cho từng địa phương trong tỉnh và việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào SX lạc của nông dân chưa được quan tâm đúng mức.
Điều kiện tự nhiên và khí hậu của thị xã Chí Linh (Hải Dương) tương đối thích hợp để nâng cao năng suất lạc, vì lạc là cây trồng có khả năng thích ứng rộng, không kén đất, không đòi hỏi bón nhiều phân đạm. Bởi bộ rễ lạc có vi khuẩn cộng sinh, có khả năng cố định đạm, tạo ra lượng đạm sinh học cung cấp cho cây và làm tăng độ phì.
Ngoài ra, trên địa bàn Hải Dương, nông dân thường trồng lạc với mật độ chưa hợp lý đã làm cho năng suất lạc chưa cao. Trước yêu cầu đó Trung tâm Nghiên cứu & phát triển đậu đỗ (Viện Cây lương thực- cây thực phẩm) đã thực hiện mô hình thâm canh lạc đạt năng suất cao trên diện tích 10 ha tại xã Hoàng Hoa Thám, thị xã Chí Linh nhằm chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng SX hàng hóa bền vững, nâng cao năng suất lạc bình quân và thu nhập cho người trồng lạc trên địa bàn.
Trong những năm qua SX lạc ở Việt Nam đã có bước nhảy vọt về năng suất, từ 1,43 tấn/ha năm 1998 lên 2,09 tấn/ha năm 2008. Tuy nhiên chênh lệch năng suất lạc giữa các vùng miền còn lớn. Chủ yếu là do thiếu giống có năng suất cao, có tính chống chịu. Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật và SX lạc của một số nơi chưa được đầu tư đúng mức.
Qua thời gian thực nghiệm đã xác định được 3 giống lạc cho năng suất quả khô cao hơn giống đối chứng là L26, L23 và L19. Khi áp dụng các biện pháp thâm canh tổng hợp đã giúp lạc sinh trưởng phát triển cân đối hơn so với đối chứng. Trong đó, giống lạc L26 đã cho năng suất cao nhất, đạt 45,3 tạ/ha tăng 15 tạ/ha so với giống đối chứng TH 116, tương đương 33,1%.
Trung tâm cũng đã hướng dẫn bà con thực hiện công thức luân canh tác có che phủ nilon cho lạc làm tăng năng suất lên 6,3 tạ/ha, tương đương 18,2% so với SX đại trà không phủ nilon. Hiệu quả kinh tế của công thức che phủ nilon đem lại tăng gần 5 triệu đồng/ha so với đối chứng (không phủ nilon).
Giống lạc L23 do Trung tâm Nghiên cứu & phát triển đậu đỗ chọn tạo là giống có tiềm năng năng suất cao, từ 50- 55 tạ/ha với nhiều ưu điểm như chịu hạn khá, kháng bệnh hại lá ở mức cao, kháng bệnh héo xanh khá.
Hiện nay mới chỉ có một giống lạc chủ đạo đang trồng tại địa phương cho năng suất cao là TH 116. Lượng phân bón từ 3- 4 tấn phân chuồng + 300 đến 500 kg NPK tỷ lệ 5:10:3+ 200 kg vôi bột/ha mà nông dân sử dụng hiện tại còn thấp, chưa hợp lý so với yêu cầu của giống trên, đã làm hạn chế năng suất lạc.
Có thể bạn quan tâm

Như NNVN đã thông tin về vụ ngộ độc tập thể do loại rượu ngâm thuốc tại bữa giỗ nhà ông Huỳnh Giống ở thôn Năng An, xã Ân Tín (Hoài Ân - Bình Định) khiến 1 người tử vong vào ngày 7/1/2012. Sau thời gian dài điều tra, cơ quan chuyên môn đã có kết luận về đối tượng gây ngộ độc.

Chiều 8/5, trong cuộc họp Ban chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch cúm gia cầm tại Hà Nội, ông Hoàng Văn Năm, Cục trưởng Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhận định: “Dịch lợn tai xanh tiếp tục diễn biến phức tạp và có nguy cơ lây lan trên diện rộng”.

Nhà vườn trồng cây ăn trái ở ĐBSCL đang cười tươi khí trái cây vụ nghịch đang có giá rất cao.

Sử dụng chế phẩm sinh học để ủ phân hữu cơ vi sinh thay thế dần phân hóa học đang được Trung tâm Khuyến nông Đồng Nai khuyến cáo vì nhiều tác dụng hữu ích. Trước tiên, phân hữu cơ vi sinh cung cấp nguồn vi sinh vật có lợi giúp cải tạo đất, làm đất tươi xốp, giữ độ ẩm và dưỡng chất cho đất… nên kích thích sự ra rễ, cây trồng sẽ phát triển mà hạn chế được sâu bệnh tấn công

Chạch lấu phân bố nhiều nơi từ Bắc, Trung, Nam, ưa sống ở các khe đá, ăn động vật là chính gồm các loại giun, ấu trùng côn trùng và côn trùng trưởng thành, tôm tép, cá con, mùn bã hữu cơ