Giới Thiệu Một Số Giống Dê Đang Có Trên Thị Trường

Dê đang nuôi ở các điạ phương gồm nhiều loại giống khác nhau và các con lai của chúng. Có thể kể các giống dê như dê cỏ, dê Bách Thảo, dê Alpin Pháp, dê Barbari Ấn Độ.
Dê ta, dê địa phương hay c̣n gọi là dê cỏ có màu lông đa dạng, phần lớn có màu vàng nâu hoặc đen loang trắng. Trọng lượng trưởng thành 30-35 kg. Dê sơ sinh 1,7-1,9 kg/con. Dê cái cho lượng sữa bình quân 350-370 gam/ngày với chu kỳ cho sữa 90 -105 ngày. Tuổi phối giống lần đầu của dê là 6-7 tháng, số lứa đẻ trong năm 1,4 và đẻ b́nh quân 1,3 con/lứa. Tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa 65-70%. Dê cỏ có nhược điểm là nhỏ con nhưng có ưu điểm là thích hợp với chăn thả quảng canh với mục đích lấy thịt.
Dê Bách Thảo có nguồn gốc từ Ấn Độ, màu lông tương đối đồng nhất 60% đen, 40% trắng (dê đốm trắng hoặc trắng đốm đen). Biểu hiện đặc trưng nhất của dê này là sống mũi nhô, miệng rộng và thô, tai cụp xuống, có nhiều con có 2 mấu thịt ở cổ gọi là hoa tai, đầu thô dài. Phần lớn dê không có sừng, một số con có sừng nhưng sừng nhỏ chếch ra 2 bên và chĩa về phía sau. Con cái đầu cổ thanh chắc, mông nở, bầu vú h́nh bát úp, núm vú dài 4-6 cm, nặng 36-40 kg, cao 55-58 cm, con đực nặng 46-53 kg, cao 60-64 cm, khả năng sinh sản của dê tốt, tỷ lệ sinh đôi nhiều, và một số có thể sinh 3. Trọng lượng sơ sinh 2-2,5 kg/con, tốc độ tăng đàn và tỷ lệ nuôi sống rất cao.Tuổi phối giống lần đầu là 10-12 tháng. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ từ 6-8 tháng, b́nh quân 1 dê cái cho 1,9 lứa/năm, tỷ lệ nuôi sống đến cai sữa 1,7 con/cái/năm.
Dê Alpin là giống dê sữa, có nguồn gốc từ Pháp. Dê có tầm vóc lớn, màu lông cố định đen, nâu vàng đến trắng. Đa số có màu xám hạt dẻ. Dê có sừng hoặc không có sừng, có hoặc không có râu cằm, dáng tai vểnh, trán và mơm rộng, nh́n nghiêng đầu giống như bị lơm, bầu vú phát triển lớn. Lượng sữa b́nh quân 900-1000 lít/chu kỳ cho sữa 240-250 ngày. Trọng lượng trưởng thành dê cái 40-42 kg, dê đực 50-55 kg.
Dê Barbari có nguồn gốc Ấn Độ, tầm vóc tương đối nhỏ, màu lông trắng thường có đốm nâu, tai mảnh, nhỏ và đứng thẳng, sừng xoắn dài hướng về phía trên và ra đằng sau. Con đực có râu cằm rậm. Trọng lượng trưởng thành nặng 30-35 kg, dê cái có bầu vú phát triển lớn, lượng sữa b́nh quân 0,9-1 lít/ngày với chu kỳ cho sữa 145-148 ngày. Khả năng sinh sản 1,8 con/lứa và 1,7 lứa/năm. Dê rất tạp ăn, chịu đựng kham khổ tốt, phù hợp với h́nh thức chăn thả ở nước ta.
Có thể bạn quan tâm

Dê đang nuôi ở các điạ phương gồm nhiều loại giống khác nhau và các con lai của chúng. Có thể kể các giống dê như dê cỏ, dê Bách Thảo, dê Alpin Pháp, dê Barbari Ấn Độ.

Dê là loài ăn tạp và khả năng sử dụng thức ăn đa dạng nên nguồn thức ăn của dê chủ yếu là thức ăn thô xanh, củ quả và phụ phế phẩm nông nghiệp, rất dễ kiếm. Thịt dê thơm ngon là món ăn được nhiều người ưa chuộng. Sữa dê có hàm lượng kháng thể cao hơn sữa bò nên tốt hơn. Người ta dùng sữa dê để làm phomat là món ăn rất bổ dưỡng. Có thể nói dê là con vật nuôi ngắn ngày, cho hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi.

Việc bắt giữ dê nhất là khi phối giống hay cân theo dõi cần phải thực hiện đúng cách.

Nhằm bao vây dập tắt bệnh đậu trên đàn dê tại thôn An Hòa, xã Xuân hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, Chi cục Thú y tỉnh Ninh Thuận đã giao nhiệm vụ cho Phòng Vệ sinh dịch tể phối hợp với Trạm Thú y huyện Ninh Hải và Ban Thú y xã Xuân Hải cùng với nhân dân trong thôn An Hải nhanh chóng triển khai công tác phòng chống bệnh đậu trên đàn dê; thực hiện cách ly, điều trị số dê bị bệnh; tiêu độc chuồng trại, xử lý xác dê bị bệnh chết; khoanh vùng, theo dõi diễn biến của dịch đậu dê; thường xuyên thông báo tình hình dịch bệnh, triệu chứng lâm sàng và cách phòng chống bệnh đậu dê trên các phương tiện thông tin đại chúng, tạo điều kiện cho người nuôi dê chủ động phòng chống và trị bệnh cho dê.

Chế độ nuôi dưỡng tốt phải đảm bảo cho dê mẹ phát triển bình thường khi có chửa, cho nhiều sữa trong thời kỳ cho sữa. Trước và sau khi đẻ phải cho dê ăn ngon, cháo cám... tùy theo năng suất, chất lượng sữa. Năng suất, chất lượng sữa phụ thuộc vào thành phần và giá trị dinh dưỡng của thức ăn.