Gian nan bám biển Hoàng Sa
Mùa biển động, tàu cá theo nghề lưới vây của ngư dân các xã Tam Quang, Tam Hải (Núi Thành) vẫn ra khơi.
Ngư trường sản xuất là vùng biển Hoàng Sa, cách đất liền đến vài trăm hải lý.
Nếu là vụ sản xuất chính thì ngư dân có thể chủ động khai thác hải sản, vì thời tiết ít diễn biến thất thường.
Vậy nhưng, thời điểm này đang là mùa biển động, bão có thể ập đến bất cứ lúc nào, ngư dân khó bề trở tay xoay xở.
Thực tế sản xuất ở vùng biển Hoàng Sa trong mùa biển động trước đây đã cho thấy nhiều tai nạn đáng tiếc đã xảy đến với ngư dân Quảng Nam.
Nhiều tàu cá bị hỏng máy, trôi dạt khi đang khai thác ở vùng biển Hoàng Sa.
Rất may là các tai nạn không để lại hậu quả đáng tiếc khi có các tàu cá gần ngư trường đến ứng cứu kịp thời.
Sản xuất ở vùng biển cách đất liền vài trăm hải lý, ngư dân chủ yếu phải tự lực cánh sinh trong điều kiện gió bão vì không có nơi neo đậu tránh trú bão cho tàu cá.
Các ngư dân cho biết, nếu như trước đây, khi có bão đột ngột, tàu cá Quảng Nam vẫn có thể tạm thời vào neo trú tại các đảo Bông Bay, Bạch Quy hay Tri Tôn.
Khi bão lặn thì lại tiếp tục trở lại ngư trường đánh bắt hải sản.
Vậy nhưng, từ 2 năm trở lại đây, việc tránh né bão ở gần quần đảo Hoàng Sa đã không còn thực hiện được do tàu nước ngoài luôn xua đuổi, có khi thừa cơ cướp ngư lưới cụ, lương thực, thực phẩm.
Với tình huống đó vào thời điểm hiện tại, ngư dân chỉ có cách là tránh xa khu vực trung tâm bão, chờ bão đi qua rồi tiếp tục sản xuất.
Nhiều ngư dân cho biết, khi bất ngờ có bão tại quần đảo Hoàng Sa, chỉ có cách di chuyển nhanh để né tránh tâm bão chứ không thể về bờ vì mất phải hơn 2 ngày trời mới đến được.
Ngư dân có vượt qua được tình huống khẩn cấp đó không nhiều khi phụ thuộc vào may mắn.
Bởi, có khi bão đang di chuyển theo hướng này thì đường đột dịch chuyển theo hướng khác, không ai dám chắc có “kịch bản” chống bão khi đang ở giữa biển cả mênh mông.
Để đối phó với những tình huống khẩn cấp khi bám biển giữa Hoàng Sa, ngư dân thường trông dựa vào sự ứng cứu lẫn nhau giữa các tàu cá trong cùng tổ, đội đánh bắt hải sản.
Phương thức này rất khả thi và được nhiều ngư dân tin tưởng bởi các phương tiện khai thác cùng ngư trường, kịp thời ứng cứu.
Hơn nữa các ngư dân lại có mối quan hệ khắng khít trong quá trình bám biển nên dễ hỗ trợ nhau khi gặp hoạn nạn.
Đã từng có những trường hợp rất cảm động khi một phương tiện phải bỏ cả chuyến biển với chi phí hàng trăm triệu đồng để lai dắt các phương tiện gặp nạn vào bờ an toàn.
Cũng có trường hợp, khi gặp bất trắc, ngư dân cầu cứu đến các lực lượng hỗ trợ từ đất liền, tuy nhiên do khoảng cách khá xa, lại tốn nhiều chi phí… nên phương thức cứu hộ này về mặt nào đó vẫn hạn chế.
Vậy nên, khai thác hải sản ở ngư trường Hoàng Sa vào mùa này khiến không ít ngư dân thắc thỏm…
Có thể bạn quan tâm
Bấp bênh nghề muối... Giá cả không ổn định, diện tích sản xuất bị thu hẹp khiến nhiều diêm dân ở các làng muối Tam Hòa, Tam Hiệp (Núi Thành) lo lắng.
Nhiều tàu câu mực đạt doanh thu hàng tỷ đồng/chuyến biển Đến thời điểm này, huyện Núi Thành có 7 chiếc tàu câu mực khơi đạt doanh thu từ 2 tỷ đồng trở lên/chuyến biển. Tại xã Tam Giang đã có 6 chiếc tàu câu mực khơi cập bến sau hơn 60 ngày đêm bám biển; trong đó có 4 tàu của ông Lương Văn Tới, Phạm Ngọc (thôn Đông Mỹ);
Cần nhân rộng mô hình nuôi dê nhốt chuồng Với khả năng kháng bệnh cao, đầu tư kinh phí ít, những năm qua nghề nuôi dê đã đem lại nguồn thu nhập cho người dân nhiều địa phương trong tỉnh, nhất là đối với các xã vùng núi. Đặc biệt, thời gian qua xã Triệu Nguyên (huyện Đakrông, Quảng Trị) đã nhân rộng mô hình chăn nuôi dê nhốt chuồng, bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế khá cao.
Người đầu tiên mang cây măng cụt về Long Khánh Nông dân Võ Thành Lập (ảnh), ngụ ấp Nông Doanh, xã Xuân Tân được xem là người đầu tiên trồng cây măng cụt trên vùng đất Long Khánh. Từ 20 cây măng cụt đầu tiên ông mang từ tỉnh Sông Bé cũ về trồng vào năm 1973, đến nay khu vườn rộng 2hécta của ông đã có trên 600 cây măng cụt lớn nhỏ khác nhau.
Đầu tư máy móc nông nghiệp còn manh mún Trong giai đoạn hội nhập sâu rộng như hiện nay, đầu tư máy móc, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất là yêu cầu không thể thiếu để ngành nông nghiệp có thể cạnh tranh khi bước vào sân chơi chung. Nhà nước cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ, như: Nghị định 68 ưu đãi vốn cho doanh nghiệp, nông dân mua máy móc, thiết bị từ khâu sản xuất đến sơ chế, chế biến nông sản; Nghị định 210 ưu đãi cho dự án ứng dụng công nghệ cao…