Giảm tổn thất trong sản xuất nông nghiệp tiến độ vẫn chậm

Bộ trưởng Cao Đức Phát cho rằng, tổn thất trong sản xuất lúa đầu tiên là do cách sử dụng giống, tiếp đến là thu hoạch, vận chuyển, phơi sấy, bảo quản trong kho. Tuy nhiên việc giảm tổn thất mới chỉ tập trung trong khâu thu hoạch và xây dựng kho.
Thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-CP, ngày 23/9/2009 về cơ chế, chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch với nông sản, thủy sản, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg. Sau đó, Quyết định số 65/2011/QĐ-TTg ngày 2/12/2011 đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 63.
Trước yêu cầu của sản xuất và kiến nghị của địa phương, ngày 14/11/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 68 về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, thay thế các Quyết định 63 và 65 với phạm vi hỗ trợ rộng hơn và đặc biệt là không bị ràng buộc bởi điều kiện 60% giá trị sản xuất trong nước đối với máy móc phục vụ nông nghiệp.
Theo Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối, qua gần 5 năm tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết 48/NQ-CP, các bộ, ngành, địa phương đã triển khai tích cực, bước đầu đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của sản xuất nông nghiệp, nhất là vùng sản xuất lúa hàng hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long và nhận được sự đồng tình cao của nông dân cả nước.
Nghị quyết đã tạo bước tăng trưởng nhanh về cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, nhất là trong lĩnh vực canh tác và thu hoạch lúa, hiệu quả đạt được cao hơn hẳn so với lao động thủ công. Đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long, máy gặt đập liên hợp đạt 76% diện tích toàn vùng, nhiều tỉnh có mức độ cơ giới hóa khâu gặt cao như Long An, An Giang đạt 98%... tổn thất khâu gặt giảm từ 5-6% xuống còn 2%.
Nhờ có chính sách hỗ trợ và một số cơ chế chính sách của địa phương ban hành đã thúc đẩy người dân mạnh dạn đầu tư mua sắm máy, thiết bị phát triển sản xuất nông nghiệp, bảo quản chế biến nông lâm thủy sản, nâng cấp công nghệ thiết bị.
Chính sách hỗ trợ cũng tạo điều kiện khuyến khích, thúc đẩy các cơ sở cơ khí chế tạo máy nông nghiệp trong nước đầu tư chiều sâu, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng máy móc thiết bị. Điển hình như cơ sở Phan Tấn (Đồng Tháp), Tư Sang 2 (Tiền Giang), Hoàng Thắng (Cần Thơ) đã đầu tư cơ sở chế tạo máy gặt đập liên hợp.
Tuy nhiên, theo ông An Văn Khanh, Phó Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối, mức tăng trưởng về cơ giới hóa chưa tương xứng với yêu cầu của sản xuất và giảm tổn thất sau thu hoạch, chủ yếu tập trung vào cây lúa, song chưa đồng bộ.
Các cây trồng khác và chăn nuôi, thủy sản chưa được quan tâm đúng mức. Tổn thất sau thu hoạch đối với lúa được thu hẹp, song với nhiều loại vẫn còn cao như rau quả, thủy sản, mía đường.
Ông An Văn Khanh cho rằng, nhiều địa phương đã tổ chức triển khai chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp nhưng kết quả thực hiện thấp hoặc người dân chưa tiếp cận được chính sách.
Điều này thể hiện qua số lượng khách hàng và doanh số cho vay còn thấp, qua báo cáo của 39 tỉnh thành thì chỉ có 19 tỉnh thành có dư nợ cho vay. Đặc biệt, lãi suất tín dụng đầu tư của Nhà nước còn cao, hiện là 8,55%/năm, không có sự chênh lệch nhiều so với lãi suất cho vay thương mại nên chưa khuyến khích các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án dây chuyền máy móc, thiết bị, các dự án chế tạo máy, thiết bị sản xuất nông nghiệp. Điều này cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh số cho vay toàn bộ chương trình.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến cuối tháng 6, doanh số cho vay triển khai chương trình 3.468 tỷ đồng, dư nợ 2.438 tỷ đồng, tăng 32% so với 31/12/2014. Doanh số cho vay tăng mạnh qua các năm, nếu như năm 2011 doanh số cho vay chỉ đạt 474 tỷ đồng, thì đến tháng 6/2015 đã tăng gấp 7,3 lần so với năm đầu triển khai chương trình. Số lượng khách hàng vay vốn theo chính sách này là 14.233 lượt, số lượng khách hàng hiện còn dư nợ 9.813 khách hàng.
Tuy nhiên, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho rằng, số lượt khách hàng và doanh số cho vay còn thấp. Việc quy định doanh sách chủng loại máy, thiết bị được hưởng chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp hiện nay còn hạn chế.
Bộ trưởng Cao Đức Phát yêu cầu, phải sửa đổi ngay Thông tư 08/2014/TT-BNNPTNT, bổ sung các loại máy móc cả trong lâm nghiệp, thủy sản, rau quả… để được hưởng chính sách.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Cao Đức Phát cũng cho rằng, thực hiện Nghị quyết 48/NQ-CP có 13 giải pháp, tuy nhiên Quyết định 68 mới thể chế được 2 giải pháp. Ngay cả khi thể chế 2/13 giải pháp vẫn còn nhiều bất cập.
Hiện vẫn chưa có tài trợ cho doanh nghiệp để chế tạo máy móc, tài trợ cho các đơn vị nghiên cứu khoa học, tài trợ để mua thiết kế nước ngoài. Bộ trưởng cũng yêu cầu Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối có báo cáo về 11 giải pháp còn lại trong Nghị quyết 48 và trách nhiệm của các đơn vị liên quan để chỉ đạo triển khai thực hiện.
Có thể bạn quan tâm

Bảo vệ nguồn lợi hải sản ven bờ là một trong những hoạt động thiết thực thể hiện tình yêu biển đảo của ngư dân Quảng Nam. Mô hình “đồng quản lý vùng biển” là ví dụ sinh động.

Chỉ trong hơn 2 tháng đầu năm 2013, ngư dân tỉnh Bạc Liêu đã khai thác gần 20.000 tấn thủy sản các loại, trong đó tôm đạt gần 2.800 tấn, còn lại là các loại thủy sản khác như cá và mực. Hiện tại, dù giá thủy sản không tăng so với năm trước, nhưng hầu hết ngư dân đều có lãi sau mỗi chuyến biển vì đạt sản lượng. Cụ thể, đối với tàu lưới lãi từ 1 - 3 triệu đồng/ngày, nghề lưới cá chim lãi từ 12 - 17 triệu đồng/chuyến/5 - 6 ngày; nghề lưới tôm thẻ lãi 6 - 10 triệu đồng/chuyến; nghề lưới cá chét lãi từ 10 - 15 triệu đồng/chuyến/ 3 - 4 ngày… Riêng tàu đánh bắt xa bờ, lãi từ 100 triệu đến vài trăm triệu đồng/chuyến đi biển từ 1 - 3 tháng.

Nghề nuôi ong lấy mật ở xã Thạnh Tây đã có từ khá lâu, tuy nhiên trước đây phần lớn là do Vườn quốc gia Gò Gò - Xa Mát tổ chức nuôi. Đến khoảng đầu năm 2013, khi VQG mở lớp đào tạo kỹ thuật và cung cấp con giống cho người dân ở xã Thạnh Tây thì nghề nuôi ong lấy mật mới được nông dân tiếp cận và phát triển. Tuy đây là một mô hình còn khá mới mẻ nhưng bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, giúp người dân nâng cao thu nhập.

Công ty cổ phần kinh doanh thủy hải sản Sài Gòn (APT Co.) cho biết, công ty đã ký hợp đồng đại lý độc quyền và tiêu thụ nhiều mặt hàng thủy sản với thương hiệu APT tại Hàn Quốc. Ngoài ra, công ty hiện đang sản xuất thêm nhiều mặt hàng thủy sản tinh chế như chả giò, chạo tôm, há cảo… và thủy hải sản khô như cá chỉ vàng, cá điêu hồng... để chào hàng vào thị trường EU, Nhật, Hàn Quốc… Đây là nhóm mặt hàng giá trị gia tăng đem lại hiệu quả cao.

Theo Chi cục Thủy sản TP Cần Thơ, từ đầu năm đến nay, diện tích thả nuôi cá tra của thành phố là 667 ha bằng 96% so với cùng kỳ năm 2012. Sản lượng thu hoạch 12.095 tấn, bằng 66% so với cùng kỳ, năng suất bình quân 212 tấn/ha. Trong tháng 1 và 2, giá cá tra nguyên liệu từ 19.500 – 20.000 đồng/kg, các hộ nuôi lỗ từ 3.500 – 4.000 đồng/kg. Sang đầu tháng 3, giá cá tra nguyên liệu đã tăng lên 22.500 – 23.000 đồng/kg, các hộ nuôi hòa vốn. Về tình hình sản xuất giống cá tra, sau thời gian phát triển nóng từ năm 2012, đến nay, diện tích ương cá tra giống chỉ bằng 56 % so với cùng kỳ năm 2012 tương đương 595 ha, với sản lượng ước đạt 128 triệu con. Nguyên nhân khiến diện tích ương nuôi cá tra giống giảm là do cung vượt cầu trong năm 2012 khiến tình hình tiêu thụ khó khăn. Hiện tại, giá cá tra giống loại 2 phân (2 cm) đã tăng nhẹ lên 25.000 đồng/kg nhưng nguồn thả nuôi còn thấp.