Giá Xuất Khẩu Chè Có Tăng Nhưng Vẫn Thấp Nhất Thế Giới

Thống kê của Bộ NN&PTNT cho thấy: Khối lượng XK chè 10 tháng đầu năm ước đạt 109 nghìn tấn với giá trị đạt 186 triệu USD, giảm 5,6% về khối lượng và giảm 0,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
So với cùng kỳ năm trước, giá chè XK bình quân 9 tháng đầu năm đạt 1.693 USD/tấn, tăng 6,03%. Khối lượng chè XK sang Pakistan - thị trường lớn nhất của Việt Nam tăng 67,64% về khối lượng và tăng 94,40% về giá trị. Trái ngược với tình trạng đó, XK chè sang Indonesia có tốc độ giảm mạnh nhất, giảm 57,16% về khối lượng và giảm 58,28% về giá trị.
Ông Nguyễn Mạnh Dũng- Trưởng phòng Chế biến, Cục Chế biến nông, lâm, thủy sản và nghề muối (Bộ NN&PTNT) đánh giá: Mặc dù 9 tháng đầu năm, giá XK chè có tăng so với cùng kỳ năm 2013 nhưng Việt Nam vẫn đang là một trong những nước có giá XK chè thấp nhất thế giới.
Nguyên nhân là bởi chất lượng chè XK Việt Nam chưa đảm bảo, nhiều sản phẩm còn chứa tồn dư thuốc bảo vệ thực vật ở mức cao. Bên cạnh đó, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các đơn vị sản xuất, XK chè cũng là lý do quan trọng khiến giá chè XK ngày càng bị “dìm” xuống.
Ông Dũng phân tích, Việt Nam hiện có khoảng 500 cơ sở chế biến chè với những quy mô khác nhau nhưng hầu như chưa có sự liên kết nào giữa các cơ sở này để tạo ra giá bán thống nhất với các đối tác nước ngoài.
Giá XK tùy thuộc vào mối quan hệ của từng đơn vị với các đối tác khiến cho giá bán ra thiếu đồng nhất và ổn định. Sự “tranh mua tranh bán” không chỉ gây bất lợi cho ngành chè nói riêng mà còn ảnh hưởng tới lợi ích của cả nền kinh tế của Việt Nam nói chung.
Để khắc phục những điểm yếu cố hữu này, các DN sản xuất, XK chè cần nhanh chóng khắc phục tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. Về lâu dài, DN cũng phải có chiến lược phát triển rõ ràng, đặt biệt đầu tư vào công tác xây dựng thương hiệu cho cả DN lẫn sản phẩm XK.
“Ngoài ra, khi muốn XK sản phẩm vào thị trường nào đó, DN cần tìm hiểu thật kỹ để đáp ứng mọi yêu cầu của thị trường. Ví dụ như DN muốn XK vào EU thì trước tiên phải đáp ứng mọi yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng của sản phẩm để được thị trường chấp nhận. Đồng thời, DN cũng phải chú ý đảm bảo các yếu tố môi trường, trách nhiệm đối với xã hội, với người tiêu dùng...”- ông Dũng nói.
Có thể bạn quan tâm

Theo mục tiêu của dự án, đến năm 2020, sẽ có ít nhất 70% các công ty sản xuất chế biến cá tra (nhỏ và vừa) và 30% các hãng sản xuất thức ăn thủy sản tham gia chương trình sử dụng tài nguyên hiệu quả và sản xuất sạch; Ít nhất 50% các DN lớn của Việt Nam cung cấp các sản phẩm thủy hải sản đạt tiêu chuẩn ASC đến châu Âu và các thị trường quốc tế.

Dự án hỗ trợ nhân dân trồng 1 ha cỏ voi tại xã Minh Tâm; triển khai mô hình trồng cỏ voi VA06 tại 2 xã: Thành Công, Ca Thành, thu hút 31 hộ tham gia; tổ chức 2 lớp tập huấn kỹ thuật ủ chua thức ăn gia súc cho 65 học viên; hỗ trợ 864 túi ni lon ủ chua thức ăn và 17 máy thái cỏ cho 5 xã thuộc vùng dự án; hỗ trợ 8 hộ, mỗi hộ 2 triệu đồng để di dời chuồng trại ra khỏi gầm sàn nhà ở.

Mô hình được triển khai thực hiện từ tháng 5-2014, với tổng số 2.000 con gà giống do 20 hộ dân của xã Kim Bình (Chiêm Hóa - Tuyên Quang) thực hiện; Trung tâm Khuyến nông tỉnh và Trạm khuyến nông Chiêm Hóa hỗ trợ 100% giá trị con giống, 50% thức ăn chăn nuôi, vacxin phòng bệnh, thuốc sát trùng chuồng trại…

Toàn tỉnh xảy ra 20 vụ cháy rừng, gây thiệt hại 39,81 ha, trong đó, 14,76 ha rừng tự nhiên; 25,05 ha rừng trồng tại các huyện: Bảo Lâm 5 ha; Hòa An 7,7 ha; Hà Quảng 3,06 ha; Nguyên Bình 6,09 ha; Trùng Khánh; 3,89 ha; Trà Lĩnh 3 ha; Thông Nông 3,61 ha. Nguyên nhân gây ra cháy rừng do thời thiết nắng nóng cục bộ làm lớp thực bì chết khô dẫn đến nguồn vật liệu cháy cao; người dân chưa kiểm soát được nguồn lửa trong trình sản xuất, canh tác ở khu ven rừng.

Trong đó, tiêm 7.506 liều vắc xin lở mồm long móng và tụ huyết trùng cho trâu, bò; 5.380 liều vắc xin dịch tả lợn và 25.000 liều vắc xin Niucatson gà. Phun thuốc khử trùng tiêu độc phòng chống cúm H5N1 và H7N9 được 313.200 m2 tại 113 xóm.