Gặt Đập Liên Hợp Đắt Khách

Dịch vụ máy gặt đập liên hợp (GĐLH) ngày càng phát triển, làm không hết việc. Đầu tư máy GĐLH đi làm dịch vụ chỉ khoảng 3 năm là thu hồi vốn.
Thâm canh tăng vụ khiến nhu cầu cơ giới hóa trong sản xuất lúa ở ĐBSCL ngày càng lớn, từ khâu làm đất, bơm tưới đến thu hoạch và sau thu hoạch. Thu hoạch lúa bằng máy GĐLH có nhiều cái lợi nên nông dân rất ưa chuộng.
Giá thu hoạch bằng máy thấp hơn thu hoạch thủ công khoảng 1,5 triệu đ/ha, lại giảm thất thoát trong khâu thu hoạch từ 5-6% xuống còn 2%, từ đó lợi nhuận của nông dân tăng lên đáng kể.
Nếu như trước đây nông dân mua máy chủ yếu để làm ruộng nhà, sau đó mới đi làm thêm cho bà con xung quanh thì hiện nay đã có nhiều người sở hữu 3-4 máy, chuyên đi làm dịch vụ.
Anh Nguyễn Công Hiếu, ở ấp kênh 4A, xã Tân Hiệp A, Tân Hiệp (Kiên Giang) đang có trong tay 5 chiếc máy GĐLH hiệu Kubota (do Nhật Bản sản xuất) chuyên đi làm dịch vụ. Anh Hiếu là một trong những nông dân tiên phong mua máy GĐLH về phục vụ SX.
Khởi nghiệp từ chiếc máy do Trung Quốc SX, làm ăn hiệu quả nên số máy của gia đình anh cứ tăng dần từng năm.
Theo anh Hiếu, khi máy GĐLH mới xuất hiện, nông dân còn dè dặt không dám thuê nhưng sau họ kêu làm không hết việc. Không chỉ làm trong ấp, anh Hiếu còn đi nhiều địa phương khác để làm dịch vụ.
Anh Hiếu tâm sự: “Hồi mới mua máy, tôi đi làm quanh năm, thời gian máy hoạt động lên đến 6-7 tháng/năm, công thuê cắt cũng cao nên trừ chi phí còn lãi đến 40-50%. Vì vậy, máy chỉ cần hoạt động 1,5-2 năm là đã thu hồi vốn”.
Rồi khi máy Nhật xuất hiện, anh lại quyết định bán máy Trung Quốc chuyển sang đầu tư máy Nhật. Anh Hiếu cho biết: “Các loại máy do Trung Quốc và Việt Nam sản xuất chỉ sử dụng được 6 vụ (3 năm) là máy hư hỏng rất nhiều, không còn khả năng đi làm dịch vụ.
Máy do Nhật sản xuất sử dụng bền hơn rất nhiều, lên đến trên 10 vụ. Vì vậy, máy Nhật dù có giá thành cao hơn từ 100-150 triệu đ/máy vẫn được nhiều nông dân đầu tư mua sắm để làm dịch vụ mang lại hiệu quả cao hơn”.
Ngay cả nông dân và thương lái đi mua lúa cũng chọn máy Nhật vì yên tâm hơn, không sợ bị hỏng hóc nửa chừng, phải chờ đợi. Vì vậy, những người trước đây lỡ mua máy Trung Quốc hoặc máy do các xưởng cơ khí trong nước sản xuất giờ chỉ có thể làm ruộng nhà mà thôi.
Ông Lê Văn Thương, một thương lái chuyên thu mua lúa ở Tân Hiệp cho biết: “Máy Nhật có tính ổn định cao, ít khi bị hư hỏng vặt nên khi đã đặt cọc với nông dân là cầm chắc mua được lúa.
Còn những loại máy khác, nhất là khi máy đã cũ rất hay bị nằm đồng do hư hỏng, phải đợi qua ngày sau mới đầy ghe lúa, vừa mất thời gian vừa lỡ lịch hẹn sấy, chất lượng gạo bị giảm, dễ bị thua lỗ”.
Hiện nay, thu hoạch lúa bằng cơ giới hóa của tỉnh Kiên Giang mới đạt khoảng 60-70% diện tích. Hơn nữa, nhiều máy đã cũ, nhất là máy do Trung Quốc sản xuất nên hoạt động không còn hiệu quả. Vì vậy, nhu cầu mua sắm máy mới vẫn còn rất lớn.
Theo tính toán của các chủ máy, bình quân thời gian hoạt động của máy GĐLH hiện nay từ 60-70 ngày/năm, trong đó 2/3 thời gian là làm tại tỉnh nhà, còn lại đi làm dịch vụ ngoài tỉnh. Với 3 vụ lúa/năm, một máy có thể thu hoạch được từ 200 - 250 ha.
Trừ chi phí nhiên liệu, thuê mướn nhân công theo máy, khấu hao… lợi nhuận thu được khoảng 150-200 triệu đ/máy. Với giá máy như hiện nay thì chỉ sau 3 năm hoạt động chủ máy sẽ thu hồi vốn đầu tư.
Có thể bạn quan tâm

Theo ghi nhận trong gần 40 năm qua, không có cây sinh trưởng mới khiến loài cây này đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Để bảo tồn và phát triển loài cây này thì việc nhân giống để trồng bổ sung là hết sức cần thiết; tuy nhiên việc nhân giống thủy tùng trong những năm qua vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.

Số diện tích lúa đông xuân gieo sạ sớm hiện nay đang trổ chín và sẽ thu hoạch trước Tết Nguyên đán 2015 chiếm 50%, còn lại là phần lớn diện tích nông dân xuống giống đồng loạt lúa đang trong giai đoạn làm đòng sẽ thu hoạch đông ken, tập trung thời điểm tháng 2 - 3 dương lịch.

Đó là chỉ đạo của Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Lê Văn Nưng tại hội thảo sơ kết “Xây dựng mô hình cánh đồng mẫu lớn trồng lúa theo hướng ứng dụng công nghệ cao”, do Trung tâm Nghiên cứu nông nghiệp Định Thành (Công ty Cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang – AGPPS) thực hiện tại xã Vọng Thê.

Những năm gần đây, tỷ lệ người mắc bệnh ung thư, các vụ ngộ độc thực phẩm có chiều hướng gia tăng, rồi nguồn thủy sinh bị cạn kiệt, tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng ngày càng diễn biến phức tạp... Nhiều ý kiến cho rằng, nguyên nhân chính gây ra tình trạng trên là do người dân lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV).

Năm qua, xuất khẩu tôm đạt gần 4 tỉ USD là cố gắng rất lớn của của nông dân và doanh nghiệp. Cho dù tình trạng dịch bệnh EMS dẫn đến sản lượng giảm mạnh. Tại thời điểm này, dịch bệnh này vẫn chưa khắc phục được. Người nuôi phải đối chọi tỉ lệ tôm nuôi không thành công rất cao.