Được, mất chuyện nuôi lợn rừng

Từ nhu cầu của thị trường, nhiều gia đình trên địa bàn huyện Đại Từ (Thái Nguyên) đã mạnh dạn chăn nuôi lợn rừng và không ít hộ có thu nhập ổn định từ loại vật nuôi này.
Tuy nhiên, cũng có những gia đình chăn nuôi không hiệu quả phải từ bỏ hoặc chuyển sang loại vật nuôi khác.
Vượt qua quãng đường đồi khá xa, chúng tôi mới đến được gia trại nuôi lợn rừng của gia đình ông Nguyễn Xuân Trường, ở xóm Lò Gạch, xã Mỹ Yên (Đại Từ).
Trên quãng đường đi, chúng tôi đã nhìn thấy từ xa những chú lợn rừng nhởn nhơ dũi đất, gặm cỏ dưới tán cây.
Thấy bóng người, chúng vội lẩn vào bụi rậm.
Anh Nguyễn Xuân Trường cho biết: Gia đình tôi có hơn 30 con lợn rừng.
Do nuôi bằng hình thức chăn thả tự do nên chúng vẫn giữ được bản tính hoang dã, ban ngày, chúng tự do đi kiếm ăn, buổi tối mới về chuồng.
Gia đình anh Nguyễn Xuân Trường bắt đầu nuôi lợn rừng từ năm 2010, sau khi nhận được 5 con lợn rừng giống Thái Lan hỗ trợ từ Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đại Từ.
Chỉ sau một thời gian ngắn, đàn lợn sinh sản, giữ số lượng đàn từ 30 đến 40 con.
Mỗi năm gia đình anh xuất bán được gần 8 tạ lợn hơi với giá 130 nghìn đồng/kg, cho thu nhập trên 100 triệu đồng.
Anh Trường cho biết: Đàn lợn rừng mỗi năm cho thu nhập 100 triệu đồng là không cao nhưng loại vật nuôi này hầu như không bị dịch bệnh, gia đình lại chăn thả tự do trên rừng, tốn ít công chăm sóc, thức ăn nên tính ra hiệu quả hơn các loại vật nuôi khác.
Trái ngược với gia đình anh Nguyễn Xuân Trường, gia đình ông Đỗ Văn Việt, xóm Quang Trung, xã Bản Ngoại lại gặp nhiều khó khăn khi nuôi lợn rừng.
Gia đình ông Việt cũng nhận được nguồn hỗ trợ khuyến nông từ xã nên đối ứng mua 4 con lợn rừng giống Thái Lan năm 2011.
Nhưng do diện tích đất nhỏ hẹp, gia đình ông Việt nuôi nhốt trong chuồng, có thể vì lý do này mà đàn lợn hay bị dịch bệnh, một số con bị chết.
Thấy không hiệu quả ông Việt đã chuyển sang loại vật nuôi khác.
Ngoài ra, ở xã Bản Ngoại còn có gia đình ông Lê Văn Năm, xóm Quang Trung cũng vội vã từ bỏ việc nuôi lợn rừng vì không tìm được đầu ra.
Ông Năm cho biết: Gia đình tôi bắt đầu nuôi lợn rừng từ tháng 6-2011, sau 1 năm, tổng đàn đã lên tới hơn 70 con nhưng chào hàng nhiều nơi mà chẳng ai mua.
Cuối cùng, gia đình tôi quyết định bán hết đàn lợn cho một gia đình trên Bắc Kạn với giá 100 nghìn đồng/kg.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Đại Từ, trên địa bàn huyện có trên 100 hộ dân nuôi lợn rừng với khoảng 200 lợn nái, mỗi năm xuất bán 2.000 con lợn rừng thương phẩm.
Trong số những hộ dân nuôi lợn rừng, nhiều hộ có thu nhập ổn định nhưng không ít hộ gặp khó khăn.
Nguyên nhân là do lợn rừng vẫn mang tập tính sinh sống hoang dã nên không phù hợp với điều kiện nuôi nhốt.
Những gia đình nuôi hiệu quả hầu hết là chăn thả tự do hoặc chăn thả trên diện tích đất rộng có quây tường, lưới sắt.
Ngoài ra, loại vật nuôi này có giá cao nhưng trọng lượng lại nhỏ và lớn chậm, trung bình 1 con lợn rừng phải nuôi từ 9 đến 12 tháng mới có trọng lượng 20 đến 30kg.
Nếu chăn bằng các loại cám công nghiệp, lợn rừng cũng lớn không đáng kể và người chăn nuôi sẽ bị thua lỗ nặng.
Bên cạnh đó, do giá còn cao nên việc tiêu thụ lợn rừng vẫn gặp nhiều khó khăn.
Cũng vì những lý do này mà nhiều gia đình đã tính toán hiệu quả kinh tế, chuyển sang loại vật nuôi khác phù hợp điều kiện sẵn có, dễ tiêu thụ, lãi cao hơn.
Trong những “con đặc sản” người dân đưa vào chăn nuôi thời gian qua, lợn rừng đang dần khẳng định là loại vật nuôi được thị trường đón nhận, mang lại giá trị kinh tế cho người chăn nuôi.
Tuy nhiên, từ thực tế chăn nuôi và nhu cầu thị trường, những người dân có ý định chăn nuôi lợn rừng cũng cần chú ý chuẩn bị chuồng trại, sân bãi có không gian rộng để lợn rừng thoải mái hoạt động phù hợp với tập tính của loài vật này.
Đồng thời, chủ động nguồn thức ăn tự nhiên như rau, củ, quả, chuối… không lạm dụng cám công nghiệp để tránh thua lỗ.
Bên cạnh đó, các gia đình cũng nên cân nhắc trước quyết định mở rộng quy mô chăn nuôi vì đầu ra sản phẩm có thể gặp nhiều khó khăn.
Có thể bạn quan tâm

Cùng với sự vận động của nền kinh tế, mô hình hợp tác xã (HTX) ngày nay có những bước thay đổi đáng kể. Đó không chỉ là sự thay thế dần dần của danh xưng "chủ nhiệm HTX" thành "giám đốc HTX", mà còn là áp lực đổi mới trong tư duy, nhận thức của những người được coi là "đầu tàu" của đoàn tàu kinh tế tập thể.

Ông Đoàn Xuân Hòa, Phó Cục trưởng Cục Chế biến Nông lâm thủy sản và nghề muối cho biết tính đến 15/7, lượng đường tồn tại kho các nhà máy là 457.890 tấn, cao hơn cùng kỳ năm trước 32.160 tấn.

Dự án do Công ty TNHH sản xuất thương mại dịch vụ Thuận An (Tafishco) đầu tư với tổng nguồn vốn hơn 282,6 tỷ đồng, tổng diện tích mặt nước vùng nuôi 43,9 héc-ta (vùng nuôi của doanh nghiệp 18,6 héc-ta, liên kết với 8 hộ nông dân nuôi cá 25,3 héc-ta). Tổng vốn vay thực hiện dự án hơn 234,7 tỷ đồng, từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Phát biểu tại một hội nghị vừa được tổ chức ở tỉnh Hàng Châu (Trung Quốc), Ren Zhengxiao, một quan chức cao cấp của Cơ quan quản lý ngũ cốc quốc gia, cho biết trong năm 2013, Trung Quốc có các kho dự trữ ngũ cốc với tổng sức chứa trên 300 triệu tấn.

Đến nay, trên địa bàn huyện Tiên Yên (Quảng Ninh) đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế nông trại, gia trại mang tính sản xuất hàng hoá ngày càng cao như: Mô hình nuôi ong lấy mật, nuôi vịt lấy trứng, gà Tiên Yên, ngan... Trong đó, khôi phục và phát triển việc nuôi ngan địa phương là một trong những mô hình tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều hộ dân. Huyện Tiên Yên có diện tích mặt nước rộng, thích hợp cho phát triển chăn nuôi thuỷ cầm, thuỷ sản theo hướng chăn nuôi tập trung. Từ lâu, người dân trên địa bàn huyện đã tiến hành nuôi ngan địa phương (hay còn gọi là ngan Tiên Yên) khá hiệu quả. Ngan Tiên Yên có đặc điểm thân hình tròn, gọn, trọng lượng lúc 5 tháng tuổi đạt 2,5-3kg/con. Thịt ngan Tiên Yên thơm ngon và có hương vị đặc biệt. Ngan địa phương ở đây được nuôi theo hình thức chăn thả, thức ăn chủ yếu là những sản phẩm nông nghiệp sẵn có của địa phương. Ngan Tiên Yên có thịt ngon nên được nhiều khách hàng trong và ngoài tỉnh ưa chuộng, nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều. Vì vậy, thời gian qua, ngan Ti