Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Đột phá trong sản xuất giống nấm

Đột phá trong sản xuất giống nấm
Ngày đăng: 02/05/2015

Hạn chế của công nghệ cũ

Trong 10 năm trở lại đây, ngành SX nấm ăn, nấm dược liệu ở nước ta đã có những bước tiến đáng kể, song vẫn chậm phát triển rất nhiều so với các nước trên thế giới do ít đầu tư vào nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại để SX.

Thực tế, công nghệ nhân và nuôi trồng nấm ở Việt Nam hiện chủ yếu sử dụng trên cơ chất rắn như trên môi trường thạch, mùn cưa, thóc, que sắn. Đây là phương pháp truyền thống, đơn giản, tuy được sử dụng một cách phổ biến nhưng lại có nhiều hạn chế.

Đó là thời gian nhân giống các cấp kéo dài, chất lượng không ổn định, tuổi giống không đồng nhất trong toàn bộ chai giống hay túi giống. Bên cạnh đó, phương pháp nhân giống trên cơ chất rắn gặp nhiều khó khăn trong việc SX giống với số lượng lớn do hệ số nhân giống thấp.

Hơn nữa, thao tác cấy chuyển giống khó tự động hóa, chịu nhiều tác động của yếu tố ngoại cảnh làm tăng nguy cơ nhiễm bệnh, qua đó việc kiểm soát đối với giống nấm cũng gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, phương pháp này làm nguyên liệu nhân giống đắt, chi phí nhân công, chi phí khấu hao điện năng, nhà xưởng cao.

Trong những năm qua, Trung tâm CNSH thực vật đã bước đầu nghiên cứu, tuyển chọn và xây dựng các quy trình công nghệ nhân giống, nuôi trồng nấm ăn, nấm dược liệu, song mới chỉ hoàn thiện được công nghệ nhân giống nấm trên cơ chất rắn.

Từ năm 2009 cho đến nay, trung tâm đã tiến hành nghiên cứu nhân giống nấm dạng dịch thể quy mô thí nghiệm (200 ml đến 100 lít) thử nghiệm trên một số giống cho kết quả, thời gian nuôi giống ngắn hơn so với công nghệ nhân giống truyền thống, song tỷ lệ nhiễm bệnh vẫn còn cao (chiếm trên 30%), khả năng ra quả thể là 100%.

Các nghiên cứu này mới dừng lại ở mức độ thăm dò và những kết quả bước đầu vẫn chưa được áp dụng vào việc SX giống và nuôi trồng nấm ăn, nấm dược liệu.

Trước đòi hỏi của thực tế khi nấm trở thành một trong những sản phẩm Quốc gia, đầu năm 2012 Trung tâm CNSH thực vật bắt tay vào thực hiện Đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ nhân giống dạng dịch thể để SX nấm ăn và nấm dược liệu”.

Mục tiêu của Đề tài là xây dựng được quy trình công nghệ nhân giống, sử dụng giống nấm ăn, nấm dược liệu dạng dịch thể phục vụ SX giống nấm thương phẩm và nuôi trồng 7 loại nấm gồm: linh chi, nấm sò, nấm mỡ, kim châm, ngọc châm, đùi gà và nấm đầu khỉ trên qui mô công nghiệp đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế cao.

Th.S Cồ Thị Thùy Vân, Trung tâm CNSH thực vật, Chủ nhiệm Đề tài cho biết, sau 3 năm triển khai (2012-2014), đề tài đã đạt được một số kết quả nổi bật.

Cụ thể: Xây dựng được quy trình công nghệ nhân giống nấm dạng dịch thể các cấp trung gian (200 ml, 2.000 ml, 5.000 ml). Quy trình công nghệ nhân giống nấm thương phẩm (giống trên thóc luộc, que sắn, mùn cưa) sử dụng giống cấy chuyển dạng dịch thể. Quy trình công nghệ giống nấm dạng dịch thể trong hệ thống nồi lên men 120 lít đưa ra thử nghiệm nuôi trồng 7 loại nấm nói trên.

Sản phẩm của đề tài đã được đưa vào SX thử nghiệm trên 20 trang trại, DN nuôi trồng nấm và được đánh giá cao với một số ưu điểm vượt trội hơn hẳn so với giống nấm SX theo phương pháp truyền thống.

Ưu việt của nhân giống dịch thể

Theo chia sẻ của Th.S Cồ Thị Thùy Vân, công nghệ nhân giống nấm lớn dạng dịch thể đang là hướng nghiên cứu được các nhà nghiên cứu nấm đặc biệt quan tâm vì giống nấm dạng dịch thể so với giống trên cơ chất tổng hợp dạng rắn có rất nhiều ưu điểm vượt trội.

Cụ thể, giống nấm dịch thể là loại giống được nuôi dưỡng trong môi trường lỏng, đảm bảo các điều kiện tối ưu về dinh dưỡng, nhiệt độ, độ thông thoáng, thời gian nuôi, khiến sợi nấm sinh trưởng mạnh trong môi trường dịch thể tầng sâu.

“Giống nấm dạng dịch thể có rất nhiều ưu điểm vượt trội so với giống trên cơ chất tổng hợp dạng rắn, trong điều kiện thuận lợi thì nuôi sợi trong môi trường lỏng khoảng 3 - 5 ngày là có thể sử dụng được, khi cấy sang nguyên liệu nuôi trồng có thể rút ngắn được 1/2 - 2/3 thời gian ươm sợi.
Tuổi giống đồng đều, chất lượng giống nấm ổn định. Sinh lực giống khỏe, khi cấy giống vào giá thể nuôi trồng sợi nấm khôi phục nhanh, khả năng hấp thụ dinh dưỡng và tốc độ lan sợi mạnh. Hơn nữa, giá thành SX giống theo phương pháp này thấp chỉ bằng 1/3 so với trên chất rắn”, Th.S Cồ Thị Thùy Vân.

Công nghệ này cho phép thu được một lượng lớn sinh khối sợi nấm để làm giống cấp 1, giống cấp 2, đồng thời có thể trực tiếp làm giống nuôi trồng (giống cấp 3).

Công nghệ trên còn được áp dụng trong việc tách chiết sinh khối sợi nấm dùng để SX thuốc, gia vị, đồ uống… trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và dược phẩm.

Phương pháp lên men nuôi dưỡng tầng sâu (nhân giống dạng dịch thể) được ứng dụng SX các giống nấm ăn như nấm hương, sò tím, kim châm, nấm rơm, mộc nhĩ đen, nấm mỡ, trà tân và linh chi.

Công nghệ này khởi nguồn từ nước Mỹ, những năm gần đây, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Đức là những nước có ngành công nghiệp SX nấm ăn và nấm dược liệu rất phát triển cũng là nhờ áp dụng công nghệ nhân giống nấm lớn thuần khiết trong môi trường dịch thể.

Cùng với sự phát triển của KH-CN, nhân giống nấm lớn trong môi trường dịch thể ngày càng được hoàn thiện và được xây dựng thành quy trình chuẩn, ứng dụng khá phổ biến ở một số nước có ngành công nghiệp nuôi trồng nấm phát triển.

Hiện nay, có nhiều quy trình nhân giống nấm lớn dạng dịch thể khác nhau phụ thuộc vào quy mô SX, điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ công nghệ của từng nước.

Nghiên cứu và SX giống nấm dạng dịch thể trải qua nhiều năm không ngừng phát triển đã có được những thành tựu bước đầu, phổ biến và ứng dụng nhân giống nấm dịch thể quy mô công nghiệp hóa để SX nấm ăn, nấm dược liệu mang lại hiệu quả rõ rệt vì có thể giảm giá thành SX và nâng cao chất lượng sản phẩm...

Th.S Cồ Thị Thùy Vân nhấn mạnh, triển vọng của công nghệ giống nấm dạng dịch thể đối với các đơn vị SX giống nấm, ứng dụng kết hợp “giống rắn - lỏng” trong SX giống nấm ăn bởi nó không những phát huy được thế mạnh là rút ngắn thời gian sinh trưởng, giá thành SX thấp, độ thuần cao, chất lượng tốt, tỷ lệ nhiễm thấp mà còn là tiền đề cho phát triển SX giống nuôi trồng nấm theo quy mô công nghiệp với số lượng rất lớn.


Có thể bạn quan tâm

Toàn Tỉnh Có Hơn 3.100 Hộ Nuôi Ong Mật Toàn Tỉnh Có Hơn 3.100 Hộ Nuôi Ong Mật

Nuôi ong quy mô hộ gia đình là nghề truyền thống ở tỉnh Thanh Hóa. Đến nay, toàn tỉnh có hơn 3.100 hộ với 15.582 đàn ong nuôi đang được đánh giá cao về hiệu quả kinh tế.

29/10/2013
Cần Thận Trọng Cho Vụ Nuôi Mới Cần Thận Trọng Cho Vụ Nuôi Mới

Viện Nuôi trồng Thủy sản II đưa ra lời cảnh báo nguy cơ dịch bệnh từ con số thiệt hại 30% ở vụ nuôi 2013 và khuyến cáo người nuôi chỉ nên nuôi với mật độ thưa, chọn con giống tốt, sạch bệnh, nuôi an toàn sinh học và nên có thời gian cho đất nghỉ ngơi để cắt mầm bệnh. Theo Trung tâm Thú y vùng VII, việc công bố kết quả tìm ra tác nhân gây hội chứng EMS chỉ mới là bước đầu. Các nghiên cứu tiếp theo để tìm ra cơ chế gây bệnh, giải pháp phòng trị vẫn đang được các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu. Hy vọng đến cuối năm nay sẽ có kết quả tốt.

30/10/2013
Phát Triển Đàn Bò Lai Phát Triển Đàn Bò Lai

Hành Tín Đông (Nghĩa Hành - Quảng Ngãi) là một trong những xã có tỷ lệ đàn bò lai lớn nhất tỉnh, với 75% so với tổng đàn. Nuôi bò lai sinh sản đã có lãi, một số hộ còn chuyển sang nuôi bò lai vỗ béo nên thu nhập càng cao.

30/10/2013
Chế Biến Cá Khô - Nỗi Trăn Trở Vươn Xa Chế Biến Cá Khô - Nỗi Trăn Trở Vươn Xa

sinh thực phẩm. Vấn đề hiện nay là cần sự hỗ trợ đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nhằm tạo sự đồng bộ và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Mặc dù đã có tiếng tăm về uy tín, chất lượng sản phẩm nhưng cá khô của làng nghề vẫn chưa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu hoặc vào hệ thống các siêu thị.

31/10/2013
Mở Hướng Tiêu Thụ Gà Đồi Yên Thế Trên Đất Cảng Mở Hướng Tiêu Thụ Gà Đồi Yên Thế Trên Đất Cảng

Là thành phố cảng biển, du lịch - một trong những vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, thị trường tiêu thụ ở Hải Phòng rộng mở cho nhiều nông sản. Đây là hướng mở cho nhiều sản phẩm của các tỉnh, thành phố về đất Cảng, trong đó có gà đồi Yên Thế (Bắc Giang).

31/10/2013