Đạ Huoai (Lâm Đồng) Trồng Chè Dưới Tán Điều

Theo số liệu thống kê của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến nay, huyện Đạ Huoai (Lâm Đồng) đã trồng hơn 493ha chè, tập trung chủ yếu ở các xã phía Bắc. Trong đó, Phước Lộc là xã có diện tích chè trồng dưới tán điều cao nhất (148ha), kế đến là thị trấn Đạ M’ri (113ha) và xã Hà Lâm (90ha). Các xã Đoàn Kết, Đạ P’Loa và Đạ M’ri, mỗi xã có gần 80ha.
“Trong số hơn 493ha chè hiện có, diện tích đang cho thu hoạch gần 200ha, sản lượng 1.487 tấn, năng suất bình quân đạt trên 63 tạ/1ha” - ông Trần Kim Trường, cán bộ Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Đạ Huoai, cho biết. Theo ông Trường, điều đáng nói là, chỉ tính riêng trong năm 2014, diện tích chè được trồng mới ở Đạ Huoai tăng mạnh (trên 320ha). Sản lượng chè búp tươi cũng tăng đáng kể.
Nguyên nhân là do đầu năm 2014, chè búp tươi có giá bán 8.000 - 12.000 đồng/1kg, nên bà con nông dân đã chủ động trồng xen chè dưới tán điều và cây ăn quả, nhằm nâng cao thu nhập. Ngoài ra, so với những loại cây trồng khác, cây chè dễ trồng, sinh trưởng nhanh, cách chăm sóc cũng khá đơn giản và có thể giữ ẩm, chống xói mòn đất. Do vậy, bà con nông dân phát triển diện tích trồng chè dưới tán điều vừa để giữ ẩm, chống xói mòn vừa tăng thêm thu nhập.
Gia đình bà Vũ Thị Thuận (tổ 3, thị trấn Đạ M’ri, huyện Đạ Huoai) có 6ha chè trồng xen dưới tán điều. 6ha chè này đã mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho gia đình bà. “Mỗi năm, gia đình tôi thu trên 500 triệu đồng từ cây chè” - bà Vũ Thị Thuận nói.
Cùng có diện tích chè trồng xen dưới tán điều lớn nhất, nhì tại thị trấn Đạ M’ri, ông Trần Hải Sơn (tổ 3, thị trấn Đạ M’ri), chia sẻ: “Mô hình trồng xen chè dưới tán điều đang mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Trồng chè dưới tán điều vừa tiết kiệm nước, phân bón, vừa đỡ công chăm bón. Vì cùng một lúc chăm sóc cả hai loại cây”. “Trước đây, trồng chè là để lấy ngắn nuôi dài. Nhưng hiện tại, với giá chè bán khá cao, cây chè lại trở thành nguồn thu chính của gia đình” - bà Vũ Thị Thuận nói thêm.
Tương tự, gia đình ông K’Brớt và gia đình bà Ka Hiên (đều ở xã Phước Lộc, huyện Đạ Huoai) cũng có thu nhập khá cao từ diện tích chè trồng xen dưới tán điều.
Tuy nhiên, theo ông Trần Kim Trường, cán bộ Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Đạ Huoai, cái khó nhất hiện nay là huyện vẫn chưa tìm được đơn vị ký kết thu mua chè cho bà con nông dân thông qua hợp đồng. “Lâu nay, bà con nông dân vẫn trồng và bán chè theo kiểu “thuận mua, vừa bán”, chứ chưa có những hợp đồng mua bán nguyên liệu dài hạn với các công ty hay đơn vị chế biến chè.
Chính sự thiếu “ràng buộc” đó, là những trở ngại cho việc phát triển diện tích trồng chè ở Đạ Huoai. Thêm nữa, chất lượng chè ra sao thì cho đến nay, ngành chức năng của huyện Đạ Huoai cũng chưa có những đánh giá cụ thể. Tuy nhiên, qua khảo sát bước đầu cho thấy, cây chè trồng ở đây sinh trưởng và phát triển tốt” - ông Trần Kim Trường trao đổi.
Qua tìm hiểu của chúng tôi, trong những năm trở lại đây, diện tích trồng chè ở Đạ Huoai có sự gia tăng đáng kể, nhưng phần lớn là do bà con nông dân tự phát trồng. UBND huyện chưa có chủ trương và chưa khuyến khích người nông dân mở rộng diện tích trồng chè. Tuy vậy, huyện cũng đang quan tâm chỉ đạo các ban, ngành chức năng của huyện tìm kiếm các đối tác trong việc thu mua chè, để giúp nông dân giải quyết “đầu ra” cho cây chè.
Có thể bạn quan tâm

Do đó, khi đề tài được thực hiện sẽ mở ra hướng đi mới cho ngành chăn nuôi tỉnh nhà. Đồng thời, giúp bà con nông dân tăng thêm thu nhập khi gắn bó với mô hình này.

Đề tài nhằm xác định thực trạng sử dụng kháng sinh hiện đang dùng điều trị bệnh ở tôm hùm nuôi lồng bè; xác định hiện tượng kháng thuốc của vi khuẩn ngoại bào thường gặp trên tôm hùm bị bệnh làm cơ sở để đề xuất giải pháp phòng, trị bệnh thân đỏ do vi khuẩn Vibrio alginolyticus và bệnh sữa do vi khuẩn Ricketsialike gây ra trên tôm hùm nuôi lồng bè tại tỉnh Phú Yên một cách hiệu quả.

Đến hết tháng 10, sản lượng khai thác thủy sản toàn tỉnh Khánh Hòa đạt 72.380 tấn, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2012. Trong đó, sản lượng khai thác chủ yếu là cá, với gần 62.000 tấn, tăng 4,27% so với cùng kỳ năm trước.

Đại diện Công ty TNHH Hải Nam cho biết, những năm qua, từ nguồn điệp quạt, công ty sản xuất, chế biến thành những sản phẩm xuất khẩu. Bây giờ, điệp quạt cạn kiệt, công ty có trách nhiệm hỗ trợ địa phương kinh phí xây dựng vùng nuôi điệp quạt tập trung. Qua việc tái tạo và bảo vệ nguồn lợi điệp quạt này, người dân có thêm thu nhập, công ty có vùng nguyên liệu ổn định để thực hiện các đơn hàng. Hơn thế, với vùng nuôi tập trung, có người quản lý, theo dõi... điệp quạt sau khi khai thác, chế biến sẽ bảo đảm sạch, đáp ứng các yếu tố cho việc xây dựng thành công chương trình chứng nhận MSC cũng như truy được xuất xứ nguồn gốc loài điệp quạt. Từ đó, giá trị con điệp quạt được nâng lên, không chỉ bán được giá cao mà cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ cũng nhiều.

Tình trạng khai thác thủy sản hủy diệt, làm cho nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt. Các khu bảo vệ thủy sản (BVTS) ở đầm phá được thành lập, ý thức bảo vệ nguồn lợi thủy sản của cộng đồng ngư dân được nâng cao.