Cựu Chiến Binh Giúp Nhau Làm Kinh Tế Giỏi
Những năm qua, Hội Cựu chiến binh (CCB) tỉnh luôn quan tâm đẩy mạnh phong trào “Cựu chiến binh giúp nhau làm kinh tế giỏi” đem lại hiệu quả thiết thực. Từ phong trào này, những người lính năm xưa lại tiếp tục phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trên mặt trận phát triển kinh tế.
CCB Đàm Văn Thào, tổ 31, phường Sông Hiến (Thị xã) chăm sóc vườn cây ăn quả của gia đình.
Chúng tôi đến thăm trang trại vườn, rừng của CCB Đàm Văn Thào, Bí thư Chi bộ Tổ 31, phường Sông Hiến (Thị xã). Đứng giữa rừng cây keo, thông, sa mộc được trồng thành những hàng thẳng tắp của gia đình, ông Thào tâm sự, năm 1976, sau khi hòa bình lập lại, ông rời chiến trường trở về địa phương xây dựng gia đình trong điều kiện cuộc sống còn bộn bề khó khăn. Năm 1977, ông vào làm việc tại Lâm trường Đề Thám. Năm 1989, về nghỉ mất sức, ông đã đầu tư trồng vườn cây ăn quả, trồng rừng và chăn nuôi lợn, gà.
Do phương thức sản xuất còn lạc hậu, đất đai canh tác lâu năm đã bạc màu, suy đi tính lại ông quyết định cải tạo lại đất đai, hoa màu, đưa các loại cây, con mới vào sản xuất nhưng không có vốn để mua dụng cụ sản xuất và sức kéo. “Thời gian đó vất vả lắm. Muốn thoát khỏi cái nghèo vì có sức, có đất đai, tôi quyết định phát triển kinh tế vườn, rừng với phương châm lấy ngắn nuôi dài”.
Tuy công việc rất bận rộn nhưng hằng ngày ông vẫn theo dõi các tin tức trên đài, báo, nhất là các vấn đề liên quan đến trồng trọt, chăn nuôi. Nhờ áp dụng đúng khoa học kỹ thuật, vườn cây với các loại quả: mận tam hoa, dứa, chuối... và chuồng trại chăn nuôi cho thu nhập gần 100 triệu đồng/năm. Hiện nay, 20 ha rừng cây sa mộc, keo, thông đã cho khai thác.
Rời quân ngũ sau ông Đàm Văn Thào, CCB Bế Ngọc Thế, Chi hội trưởng CCB xóm Háng Páo, thị trấn Hùng Quốc (Trà Lĩnh) trước đây cũng có hoàn cảnh khó khăn tương tự. Năm 1981 xuất ngũ, trở về quê hương, cuộc sống của gia đình ông chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, đất nông nghiệp ít nên cuộc sống rất chật vật.
Sau khi trải qua nhiều nghề, ông Thế quyết tâm xây dựng mô hình sản xuất vật liệu xây dựng. Năm 2000, ông vay vốn ngân hàng 10 triệu đồng, cộng với vốn tự có của gia đình đầu tư 30 triệu đồng khai thác bãi cát Hoằng Hoảng để cung cấp cát cho các công trình xây dựng trên địa bàn huyện. Công việc thuận lợi, năm 2007, ông mở rộng mô hình kinh tế.
Qua tham quan học hỏi kinh nghiệm về phát triển kinh tế hộ gia đình, ông vay vốn Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện 100 triệu đồng mua máy ép gạch bê tông, máy nghiền đá và một số máy móc khác để sản xuất gạch tiêu thụ tại địa phương và các xã lân cận. Lúc đầu, do chưa có kinh nghiệm nên chất lượng gạch chưa cao, tiêu thụ chậm. Ông khắc phục bằng cách tăng tỷ lệ xi măng, bột đá và pha phụ gia màu hợp lý. Từ đó gạch do cơ sở của gia đình ông sản xuất luôn được thị trường tín nhiệm, nhiều công trình xây dựng quy mô đăng ký mua với số lượng lớn.
Thời gian sau, ông lại tiếp tục đầu tư mua xe công nông để chuyên chở cát, gạch đi tiêu thụ. Sau mấy năm sản xuất, kinh doanh hiệu quả, ông mua thêm nhiều thiết bị, máy móc phục vụ cho việc sản xuất gạch, cát. Hiện nay gia đình ông đã trả nợ xong và làm ăn có lãi, xưởng gạch và bãi cát tạo việc làm cho hơn 10 lao động là con em CCB với thu nhập bình quân 2 triệu đồng/người/tháng. Xưởng gạch bê tông với công suất 400 - 500 viên gạch/ngày, doanh thu từ bãi cát và xưởng gạch trên 100 triệu đồng...
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc, những người lính năm xưa bắt tay vào “cuộc chiến chống đói nghèo”. Ông Nông Thế Phòng, Phó Chủ tịch Hội CCB tỉnh nhận định: Thực hiện phong trào “CCB giúp nhau làm kinh tế giỏi”, các CCB phát huy phẩm chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, quyết tâm vượt lên mọi khó khăn, không cam chịu đói nghèo, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống gia đình. Với nhiều mô hình kinh tế hiệu quả, cho thu nhập cao đã góp phần từng bước xóa đói, giảm nghèo. Đến nay, số hội viên CCB có thu nhập thấp chỉ còn 16,92%, số hội viên có thu nhập khá trở lên đạt khoảng 37%.
Những nỗ lực của CCB đã góp phần cùng địa phương thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo theo tinh thần nghị quyết đại hội Đảng các cấp đề ra.
Có thể bạn quan tâm
Nông Dân Đắk R’tíh Sản Xuất Theo Hướng Đa Cây, Đa Con Điển hình như trang trại của gia đình ông Nông Văn Phùng ở thôn Doãn Văn gồm hơn 10 ha với đủ loại cây trồng đang đem lại hiệu quả kinh tế khá cao. Theo như lời ông kể thì trước đây toàn bộ diện tích này, gia đình ông chỉ trồng cà phê, điều, cao su, nhưng năng suất còn thấp.
Tổng Kết Mô Hình Thí Điểm Chuỗi Kiểm Soát Chè An Toàn Tại Thanh Sơn Phú Thọ là tỉnh có diện tích chè đứng thứ 4 trong cả nước với tổng diện tích hơn 16,1 ngàn ha, năng suất chè bình quân đạt 9,4 – 9,8 tấn/ha/năm, sản lượng chè búp tươi năm 2014 ước đạt xấp xỉ 143 ngàn tấn. Toàn tỉnh có 56 công ty, xí nghiệp chế biến chè xanh, chè đen với công suất trên 1 tấn búp tươi/ngày; 1.200 cơ sở chế biến thủ công; 9 làng nghề chế biến chè. Sản phẩm chè của tỉnh hiện đã có mặt ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Sản Lượng Tôm Nuôi Ở Bình Định Tăng Khá Theo báo cáo của Phòng NN-PTNT huyện Tuy Phước (Bình Định), vụ 1.2014 toàn huyện thả nuôi tôm trên diện tích hơn 962/972 ha, trong đó có 90 ha nuôi thâm canh, bán thâm canh thả giống tôm thẻ chân trắng (TTCT), diện tích còn lại nuôi theo phương thức quảng canh cải tiến, nuôi tôm ghép với các đối tượng thủy sản khác.
Mùa Sen Trắng Tay Nếu như các năm trước, vào tháng 6, đến Bàu Nghè, nhiều người không muốn về bởi cảnh sắc vùng sen này níu giữ, thì năm nay, trên đồng sen không một bóng người, hồ nào cũng chỉ lơ thơ một ít cọng sen còn nguyên lá, đủ để người ta nhận ra đó là nơi trồng sen. Lội cả cánh đồng sen cũng chỉ tìm được vài bông.
Tái Cơ Cấu Để Phát Triên Chăn Nuôi Bền Vững Tái cơ cấu là yêu cầu bắt buộc để chăn nuôi của tỉnh phát triển mạnh, nhanh bền vững, hướng tới mục tiêu có sản phẩm ở các thị trường ngoại tỉnh, xây dựng thương hiệu chăn nuôi Phú Thọ với những tiêu chí, phẩm cấp riêng như theo quy trình VietGAP, Global GAP.... Vậy đâu là những giải pháp để có thể đạt được mục tiêu đề ra ?