Công Nghệ Nuôi Cá Lồng Xa Bờ Ở Trung Quốc

Ở Trung Quốc, nhu cầu nuôi cá lồng ngoài khơi chưa bao giờ cấp thiết như hiện nay vì mật độ tập trung quá lớn của các lồng nuôi truyền thống ở các khu vực ven biển.
Tuy nhiên, các lồng nuôi truyền thống bằng gỗ không thể chống chọi được với bão tố. Công nghệ nuôi xa bờ bằng lồng hình tròn NaUy đã được đưa vào Trung Quốc từ năm 1996 nhưng khả năng mở rộng áp dụng công nghệ này rất chậm, do năng lực đầu tư thấp của các DN gia đình quy mô nhỏ.
Năm 2004, Chương trình Tiếp thị Quốc tế của Hiệp hội Đậu tương Hoa Kỳ (ASAIM) đã đa dạng hóa chương trình nuôi cá biển bằng lồng xa bờ, nơi điều kiện môi trường tốt hơn và ít cạnh tranh hơn so với các ngành khác, mở đầu với bốn lồng đa diện ở đảo Hải Nam trong các năm 2004 - 2008.
Từ năm 1999, ASAIM đã khởi đầu một chương trình phát triển nuôi cá biển bằng thức ăn chế biến trong lồng tại các tỉnh ven biển của Trung Quốc. Những thử nghiệm với thức ăn làm từ đậu tương hàm lượng cao cho cá mú Nhật Bản, cá đù Mỹ đỏ, cá đổng vàng, cá nục vây vàng và các loài cá khác đã mang lại thành công.
Sau đó, nhóm nghiên cứu dưới sự dẫn dắt của TS Micheal Cremer tiếp tục tiến ra vùng xa bờ, nơi có chất lượng nước tốt hơn, do chất lượng nước vùng ven bờ ngày càng xấu đi, đe dọa tương lai của nuôi trồng thủy sản Trung Quốc.
Ngoài ra, còn những vấn đề khác như sự lan truyền bệnh tật do sử dụng tràn lan cá tạp làm thức ăn, ô nhiễm vùng nước ven biển do chất thải nông nghiệp và công nghiệp. Những nỗ lực nuôi xa bờ ban đầu không thành công do cá nuôi bị thất thoát và lồng nuôi bị bão phá hoại.
Chuyên gia nuôi trồng hải sản Hsiang Pin Lan của ASAIM cho biết: “Yêu cầu của chúng tôi là thiết kế lồng có thể chống chọi với gió bão thường xuyên xảy ra tại các vùng biển Trung Quốc. Tuy nhiên, thiết kế không nên quá phức tạp để ngư dân quy mô nhỏ vẫn có thể nuôi được.
Trên toàn cầu, đã có những thiết kế tốt cho những lồng nuôi kiên cố nhưng chi phí quá lớn và chỉ có những công ty lớn mới có thể chịu nổi chi phí như vậy”.
ASAIM tài trợ cho hoạt động phát triển lồng nuôi cá xa bờ thông qua chương trình đánh giá đậu tương Mỹ và nguồn hỗ trợ tài chính bổ sung từ Cơ quan Nông nghiệp Quốc tế Mỹ.
“Chúng tôi đã bắt tay xây dựng công nghệ nuôi cá lồng xa bờ trong nhiều năm và đã điều chỉnh nhiều lần. Lồng nuôi do chúng tôi thiết kế đã chống chọi được với cơn bão cấp 12 mang tên Dawei với tốc độ gió lên tới 200 km/giờ năm 2005. Chiếc neo bằng xi măng hình vuông nặng 5 tấn, nhưng ở dưới nước nó chỉ còn 3 tấn. Lồng có một khớp xoay quay đa chiều thích hợp với dòng nước đến từ nhiều hướng khác nhau.
Điểm đặc trưng quan trọng nhất trong công nghệ của chúng tôi là hệ thống tự điều chỉnh độ ngập nước. Khi có dòng chảy mạnh, hệ thống tự động nhấn chìm lồng xuống dưới mặt nước ở độ sâu nhất định, nơi lực sóng - gió đã giảm đáng kể. Một đặc điểm khác là ống chuyển cá là một đường ống ngầm dưới nước”.
Bảo dưỡng dễ dàng cũng là một điều quan trọng. Ông Lan cho biết chiếc lồng chỉ sâu 4 mét nên người vận hành không cần thiết bị lặn. Các kiểm nghiệm của họ cho thấy mỗi chiếc lồng có thể tích 100 m3 có thể giữ được 6 tấn hay 10.000 con cá với tỷ lệ sống sót đạt 99%. Thông tin chi tiết về lồng nuôi cá xa bờ hiện được giới thiệu trong một đĩa CD hướng dẫn.
Kể từ năm 2008, nhóm này đã sử dụng 4 chiếc lồng nuôi xa bờ cố định với nhau bằng dây chão cho mục đích nghiên cứu và phát triển. Năm 2009, mức chi phí cho mỗi lồng là 15.000 USD và cho hệ thống dây chão 300 USD. Hiện nay, họ đang tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh hệ thống lồng, như sử dụng lưới đồng để chống các loài sinh vật bám. Đến nay đã có 7 lồng như vậy, trong đó 3 chiếc đặt ở Biển Đen thuộc một chương trình nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Mỹ và chính quyền bang Georgia.
Ông Lan cho biết: “Nói chung, mục tiêu không phải đưa ra khuôn mẫu để ngành nuôi hải sản Trung Quốc dập khuôn, mà chỉ đưa ra những gợi ý để họ cân nhắc”.
Có thể bạn quan tâm

Những năm gần đây, ngoài sản xuất vụ lúa Đông Xuân, Hè Thu và lúa mùa trong năm, nhiều nông dân tỉnh Kiên Giang còn tự phát gieo sạ vụ lúa Thu Đông (hay còn gọi là lúa vụ 3) để tăng thêm thu nhập. Tuy nhiên, sản xuất lúa vụ 3 được đánh giá là lợi bất cập hại khi rủi ro rất cao.

Với hơn 40 loại rau, năng suất đạt khoảng 20 tấn/ha/vụ, sản lượng gần 600 nghìn tấn/năm, nhưng hiện vẫn thiếu hơn 350 nghìn tấn rau/năm so với nhu cầu tiêu dùng của người dân. Để không phải nhập rau an toàn từ các địa phương khác đang trở thành mục tiêu phấn đấu của các hợp tác xã, các hộ nông dân trồng rau ở Hà Nội hiện nay.

Hai anh Sa Lés và Da Cốp (ngụ xã Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Hanh, Châu Thành - An Giang) thành công với mô hình nuôi le le lấy thịt và cho sinh sản, theo kiểu bán hoang dã. Với diện tích khoảng 1.000m2, hai anh thả nuôi trên 700 con le le các loại (500 con le le sinh sản), thu lời gần trăm triệu đồng mỗi năm.

Các doanh nghiệp tham gia ký kết hợp đồng, bao tiêu sản phẩm trong khuôn khổ chương trình cánh đồng mẫu lớn gồm: Công ty Tân Thành (Cần Thơ), Công ty Lương thực Tiền Giang, Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang và Công ty ADC.

Theo quy hoạch phát triển vùng sản xuất mãng cầu ta tỉnh BR-VT đến năm 2020, diện tích sản xuất giống cây trồng này của tỉnh là khoảng 1.700ha, với sản lượng bình quân 10.000 tấn/năm. Dự kiến đến năm 2030, trên địa bàn tỉnh sẽ ổn định diện tích mãng cầu ta 1.709ha, diện tích cho sản phẩm 1.606ha, sản lượng 13.403 tấn.