Công cụ mới có thể giúp kiểm tra độc tố trong thủy sản có vỏ dễ dàng hơ

Một số loài tảo đơn bào 2 roi (dinoflagellate) gây ra hiện tượng thuỷ triều đỏ, sinh vật thường thấy trong nước biển, có thể độc hại và được liên kết với tảo gây hại và sự tích tụ vi khuẩn, có thể dẫn đường cho các độc tố di chuyển vào trong mô của động vật có vỏ, từ đó đẩy sự an toàn thực phẩm vào nguy cơ nghiêm trọng.
Mặc dù vi khuẩn cộng sinh được xem là quan trọng trong sự sinh tổng hợp của các chất độc từ các loài tảo 2 roi, sự tương tác của vi khuẩn độc hại này hiện mới chỉ được thiết lập, tạp chí của Hiệp hội Hóa học Hoàng gia cho biết.
Michael Burkart và cộng sự tại Đại học California ở San Diego (UCSD) đã làm việc để tạo ra một công cụ sử dụng kính hiển vi huỳnh quang để phát hiện các dinoflagellate sản sinh ra chất độc trong thủy sản có vỏ.
Nhóm của ông đã để một protein huỳnh quang được hấp thụ bởi các tế bào biển sinh tổng hợp độc tố okadaic acid.
Trong các nghiên cứu cơ thể sống đã chứng minh rằng các mẫu sản sinh ra độc tố sinh học biển okadaic acid xuất hiện trong màu xanh huỳnh quang dưới kính hiển vi.
Các mẫu tương tự mà cho một phản ứng tích cực với máy dò cũng đưa ra các dấu hiệu của vi khuẩn cộng sinh ở thành tế bào của chúng, chứng tỏ sự liên kết vi khuẩn độc hại.
Thí nghiệm của Burkart do đó có khả năng lựa chọn những con vẹm mang trong cơ thể các dinoflagellate sản xinh ra độc tố ở các giai đoạn khác nhau, bằng cách đếm số lượng các tế bào phát sáng.
Việc mô tả bằng hình ảnh động vật có vỏ nhiễm dinoflagelate xác định acid okadaic nhanh hơn nhiều so với các phương pháp hiện nay mà chỉ phát hiện các loài tảo này khi chúng được hấp thu hoàn toàn vào các mô của thủy sản có vỏ.
Phát hiện này là "sự khởi đầu của một công cụ giám sát hữu ích cho sức khỏe cộng đồng", ông Jon Clardy, một nhà nghiên cứu dược lý học tại Trường Y khoa Harvard ở Cambridge, Mỹ.
Ông thực sự ngạc nhiên khi thấy rằng các vi khuẩn đóng một vai trò trong sự sinh tổng hợp các acid okadaic và có thể liên quan đến độc tố tảo.
Burkart cho rằng, nếu phương pháp này có thể được sử dụng với một hệ thống tự động, nó có thể là một công cụ kiểm tra hữu ích cho ngành nuôi trồng thủy sản.
"Người ta có thể tưởng tượng một ứng dụng điện thoại di động sẽ cho phép bạn biết liệu món rau hoặc món hàu có an toàn để ăn hay không.
Có một tiềm năng to lớn trong phương pháp trực quan để kiểm tra chất lượng thực phẩm và sự kết hợp nó với các thiết bị và hệ thống kỹ thuật số hiện đại", ông hình dung.
Có thể bạn quan tâm

Bệnh này thường xảy ra trong giai đoạn tôm bột (PL), quan sát trong bể nuôi thấy xuất hiện một số con có màu trắng đục trên thân, điểm trắng đục xuất phát từ đuôi và lan dần ra, tôm bị bệnh bơi lội khó khăn, những con bị nặng sẽ chết. Bệnh xảy ra mang tính tự phát do các hiện tượng sốc của môi trường: nhiệt độ, độ mặn và oxy, kết hợp với mật độ nuôi cao, kỹ thuật nuôi không phù hợp.

Quan sát trong bể nuôi thấy ấu trùng bơi không bình thường, hoặc chìm nhiều ở đáy bể, quan sát trên kính hiển vi thấy các phần phụ cuả ấu trùng bị ăn mòn, hoặc cụt như chủy, chân bụng, chân ngực, chỗ bị ăn mòn có màu vàng cam. Khi bị bệnh nặng, không trị kịp thời ấu trùng chết nhiều.

Nếu tận dụng tốt mặt nước từ các mương vườn, đồng thời áp dụng một số phương pháp như cải tạo mương vườn, chọn giống, quản lý, chăm sóc tốt thì hằng năm chúng ta có một lượng tôm càng xanh thương phẩm khá lớn.

Bệnh này khá phổ biến trong quá trình nuôi tôm, tại trại ương giống tôm, bề mặt tôm con thường bị tiêm mao trùng ký sinh. Nếu nghiêm trọng bề mặt ngoài thân tôm mổi lên từng đám lông xù ra như bông, giống như trứng cá bị dính nấm nước.

Tôm càng Hồ Tây còn gọi là tôm xanh tên khoa học là Macrobrachium nippovensis phân bố rộng ở sông, suối, ao, hồ chứa, ruộng nước, kênh mương. Tuy không lớn nhưng thịt thơm ngon, giá trị kinh tế cao. Gần đây ở Trung Quốc giá tôm này còn cao hơn tôm càng xanh. Ở Hồ Tây (Hà Nội) sản lượng đạt 30 – 40 tấn (1965).