Chuyển Biến Trong Ứng Dụng Tiến Bộ Khoa Học Vào Sản Xuất Nông Nghiệp Ở Mèo Vạc

Mèo Vạc lâu nay vốn là huyện gặp nhiều khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, tập quán canh tác lâu đời có ảnh hưởng lớn đến năng suất, sản lượng cây trồng. Xác định chú trọng phát triển nông nghiệp để từng bước XĐGN bền vững, vài năm trở lại đây, địa phương đã mạnh dạn áp dụng KHKT vào sản xuất, nâng cao giá trị nông sản. Trong đó, việc ứng dụng tiến bộ khoa học (TBKH) vào mô hình sản xuất rau an toàn được xem là hướng đi khá hiệu quả.
Theo tìm hiểu, mỗi vụ sản xuất, huyện Mèo Vạc gieo trồng trên 1.000 ha rau, đậu các loại. Nếu như trước đây, việc phát triển loại cây trồng này chỉ mang tính chất tự phát ở các hộ thì hiện nay, do nhu cầu của thị trường, nhất là chủ động trong áp dụng KHKT vào sản xuất đã dần hình thành nên vùng sản xuất tập trung. Trong đó, tập trung chủ yếu ở một số xã núi đất như: Tát Ngà, Niêm Sơn...
Đặc biệt, một số mô hình sản xuất rau an toàn đang được quy hoạch, mở ra một hướng đi mới hiệu quả. Đồng chí Hứa Đình Tuấn, Phó phòng NN&PTNT huyện Mèo Vạc cho biết: “Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng với cách làm như hiện nay, đang tạo sự hứng khởi cho người dân tham gia. Việc hình thành từng khu vực sản xuất tập trung không chỉ tập hợp đông đảo người dân mà còn giúp cho công tác chăm sóc cũng như áp dụng TBKH được thuận lợi”.
Thăm mô hình sản xuất rau của anh Bạch Văn Tuấn ở thị trấn Mèo Vạc, không khỏi bất ngờ khi ở giữa “phố núi” lại có một mô hình rau quy mô như vậy. Với diện tích trên 1.000m2 , vườn rau của gia đình anh có nhiều loại cây như: Bắp cải, súp lơ, su hào... Do sản xuất theo hình thức gối vụ nên trong vườn nhà anh luôn đảm bảo trên mười loại rau. Bình quân mỗi năm, trừ chi phí, gia đình anh thu về trên 100 triệu đồng.
Anh Tuấn tâm sự: “Trước đây, diện tích này là của bà con xung quanh; từ năm 2011, vì nhận thấy mọi người trồng ngô năng suất đạt thấp nên gia đình đã chủ động mua lại và chuyển đổi sang trồng rau. Mới đây, được Phòng NN&PTNT huyện đầu tư hệ thống khung mái che và phối hợp thử nghiệm chế phẩm sinh học E.M. Sau một thời gian thấy hiệu quả khá rõ rệt”.
Được biết, chế phẩm E.M là chế phẩm sinh học tập hợp các loài vi sinh vật có ích như: vi khuẩn quang hợp, vi khuẩn lactic, nấm men, xạ khuẩn, nấm mốc... sống cộng sinh trong cùng môi trường có hiệu quả tác động, như: Bổ sung vi sinh vật cho đất; cải thiện môi trường lý, hóa, sinh đất và tiêu diệt tác nhân gây bệnh, sâu hại trong đất; xử lý rác thải, khử mùi hôi của rác, nước thải; tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi; tăng hiệu lực sử dụng các chất hữu cơ làm phân bón. “Rau cung cấp ra thị trường vẫn thiếu so với nhu cầu nhưng do đặc thù thời tiết, tình trạng thiếu nước vào mùa khô gây khó khăn trong sản xuất rau.
Gia đình tính toán để lắp đặt dàn dây tưới tự động nhỏ giọt nhưng đang gặp khó khăn về vốn”- anh Tuấn chia sẻ. Được biết, Phòng NN&PTNT huyện Mèo Vạc khuyến khích bằng việc hỗ trợ một phần giống và phân bón, đồng thời có chủ trương xây dựng thương hiệu rau an toàn tại vườn rau của gia đình anh Tuấn.
Thực tế sản xuất nông nghiệp tại Mèo Vạc cho thấy, địa phương nào tích cực áp dụng KHKT vào sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế thì đời sống của bà con nông dân ngày một nâng cao.
Những chuyển biến trong ứng dụng TBKH vào sản xuất nông nghiệp ở Mèo Vạc hiện đang là động lực để huyện tiếp tục đưa mục tiêu XĐGN bền vững về đích. Đó còn là cơ sở để địa phương đẩy mạnh tuyên truyền tới bà con nông dân chủ động ứng dụng KHKT vào sản xuất.
Tiếp tục thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tăng diện tích cây rau màu có giá trị kinh tế cao ở cả 3 vụ: vụ Đông, vụ Xuân – hè, vụ Hè – thu. Đồng thời, đẩy mạnh việc hình thành vùng sản xuất tập trung. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ gia đình phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững.
Có thể bạn quan tâm

Ông Phạm Đồng Quảng cũng khẳng định: “Xu hướng chung hiện nay là tỷ lệ lúa lai đang giảm dần, mặc dù đây là giống cho năng suất cao và dễ trồng, có khả năng chống chịu bệnh, phù hợp thời tiết, khí hậu nhưng giá trị không cao bằng các giống lúa thuần. Bà con đang chuyển dần sang trồng các giống lúa Bắc Thơm 7, BC 15, nếp thơm…”.

Với mục đích quy hoạch vùng chăn nuôi trâu tập trung theo hướng hàng hoá, chú trọng phát triển con giống và tăng nhanh số lượng tổng đàn, trong giai đoạn từ tháng 5.2013 đến hết năm 2015, huyện Vị Xuyên chủ trương thực hiện cải tạo, phát triển đàn trâu tại xã Trung Thành. Đến nay, bước đầu đã mang lại những kết quả khả quan cho người chăn nuôi trâu trên địa bàn xã.

Anh Nhi cho biết: “Sau khi đi tham quan tận mắt mô hình của người dân trong huyện và thấy được hiệu quả của loài vật nuôi này nên tôi quyết định mua về 6 con chồn bố mẹ, với nguồn vốn ban đầu gần 20 triệu đồng. Thời điểm đó, mỗi ký chồn bố mẹ có giá 950.000 đồng”.

Điển hình như trang trại của gia đình ông Nông Văn Phùng ở thôn Doãn Văn gồm hơn 10 ha với đủ loại cây trồng đang đem lại hiệu quả kinh tế khá cao. Theo như lời ông kể thì trước đây toàn bộ diện tích này, gia đình ông chỉ trồng cà phê, điều, cao su, nhưng năng suất còn thấp.

Phú Thọ là tỉnh có diện tích chè đứng thứ 4 trong cả nước với tổng diện tích hơn 16,1 ngàn ha, năng suất chè bình quân đạt 9,4 – 9,8 tấn/ha/năm, sản lượng chè búp tươi năm 2014 ước đạt xấp xỉ 143 ngàn tấn. Toàn tỉnh có 56 công ty, xí nghiệp chế biến chè xanh, chè đen với công suất trên 1 tấn búp tươi/ngày; 1.200 cơ sở chế biến thủ công; 9 làng nghề chế biến chè. Sản phẩm chè của tỉnh hiện đã có mặt ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.