Chịu khó học hỏi ắt thành công
Sinh ra và lớn lên trong gia đình làm nghề nông, cái nghèo đã khiến anh Chính không có điều kiện tiếp tục học lên chuyên nghiệp. Ở thôn Lủng Vạng quê anh, người dân đã manh mún làm nghề chế biến và sản xuất miến dong nhưng thủ công, mất nhiều thời gian, thị trường cũng chưa biết đến.
Bởi vậy, anh phụ giúp gia đình bằng cách đi làm thuê, rồi đi học lái xe… nhưng cũng chỉ đồng ra đồng vào nuôi đủ bản thân. “Cơ duyên” đến với anh khi một lần chủ hàng khuyên: Sao không đi xuống Hà Tây xem người ta tráng bánh, làm miến bằng công nghệ mới để về thay đổi cách làm truyền thống tráng tay.
Cũng đúng, quê anh tráng bánh bằng tay vừa tốn củi mà mất nhiều thời gian, sợi miến sợi to sợi nhỏ, chất lượng không đồng đều. Có trong tay 5 triệu đồng, anh Nông Văn Chính quyết định đi xuống Hà Tây, vào làng nghề sản xuất miến khảo sát thực tế. Đến nơi, công nghệ sản xuất miến dây chuyền làm anh bất ngờ.
Hỏi ra, một ngày họ tráng khoảng chục tấn tinh bột, còn mình tráng tay cùng lắm được 80-100kg bột. Tuy nhiên giá thành máy tới hơn 100 triệu đồng. Như nhìn thấy tương lai của gia đình mình, anh Chính quay về bàn với vợ, thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng.
Năm 2007, anh Chính đầu tư mua máy tráng hơi, với công suất 1 tấn tinh bột/ngày. Để học hỏi cách vận hành, anh mời người có tay nghề ở làng nghề miến Hà Tây lên hướng dẫn. Có xưởng và đầu tư máy móc nhưng hai mẻ đầu tiên được 9 tạ miến khô, anh chở xe máy, gửi ô tô xuống Thái Nguyên bán nhưng bị khách hàng từ chối, trả về vì ăn không ngon.
Thua lỗ mấy chục triệu đồng nhưng vợ chồng anh động viên nhau và đúc kết kinh nghiệm, chú ý từng khâu sản xuất. Ngày một kinh nghiệm, sản phẩm đạt chất lượng tốt hơn. Tết năm 2007, gia đình anh đã thu về số tiền hơn 100 triệu đồng- đủ trả ngân hàng cả gốc lẫn lãi. Sau đó anh lại tiếp tục khăn gói đi học tập kinh nghiệm sản xuất ở những vùng làm miến nổi tiếng.
Đến năm 2011, miến dong do cơ sở anh Nông Văn Chính sản xuất đã có thị trường, lượng đơn đặt hàng và tư thương đến tận nơi mua ngày càng tăng, hầu như miến sản xuất ra đều bán hết.
Anh Chính chia sẻ: để có thương hiệu cần thời gian và sự kiên trì, chịu khó học hỏi, đúc kết kinh nghiệm từ những người đi trước và bản thân sau nhiều lần thất bại. Cũng đã có những ngày khổ cực, sáng sớm anh đi xe máy, đèo mấy tạ miến đi Ngân Sơn tiếp thị, phân phối và cho những người có thiện chí sử dụng miễn phí để họ đánh giá…
Anh Chính chia sẻ: Miến của gia đình sản xuất làm theo cách truyền thống, sử dụng máy móc để đẩy nhanh năng suất nên mẫu mã đồng đều, không sử dụng bất kỳ hóa chất nào trong các khâu sản xuất. Để sợi miến ngon, dai giòn, không bị nát khi nấu và có hương vị mát ngọt của bột dong, ngoài khâu pha chế tỉ lệ phù hợp giữa bột sống và chín thì ánh nắng ảnh hưởng đến chất lượng miến, phơi sợi miến những ngày nắng khi đóng gói và đem chế biến vẫn có mùi thơm của nắng.
Với công suất khoảng 1 tấn tinh bột/ngày, năm 2013 cơ sở sản xuất miến dong Chính Tuyển sản xuất và bán ra thị trường 60 tấn miến khô, năm 2014 tăng lên 84 tấn. Năm 2015 với việc nâng cấp máy móc lên công suất 50 tấn củ dong/ngày, anh Chính phấn đấu sản xuất 120 tấn miến khô. Cơ sở sản xuất của gia đình anh đang giải quyết việc làm thường xuyên cho 12 lao động với thu nhập 3,6 triệu đồng/người/tháng.
Sự tỉ mỉ, chịu khó trong học hỏi nâng cao chất lượng miến và tiếp thị sản phẩm, uy tín miến dong Chính Tuyển đã có chỗ đứng trên thị trường ngoài tỉnh. Năm 2012, sản phẩm miến do cơ sở anh Chính sản xuất đã có cơ hội xuất khẩu sang Ba Lan, Nga. Trong năm 2015 sẽ xuất khẩu sang Thái Lan. Hiện, sản phẩm miến Chính Tuyển có hai cơ sở phân phối tại Thái Nguyên và Hà Nội.
Để có vùng nguyên liệu ổn định đáp ứng nhu cầu sản xuất, năm 2015 anh Nông Văn Chính đã đến từng thôn để ký hợp đồng thu mua, bao tiêu củ dong riềng với diện tích hơn 100ha, với giá thấp nhất 1.500 đồng/kg; đồng thời thực hiện ủ bã dong riềng làm phân vi sinh cho bà con với mức giá hỗ trợ. Sự nỗ lực vươn lên, năng động trong phát triển kinh tế của gia đình anh Nông Văn Chính xứng đáng được bà con học hỏi, nhân rộng/.
Có thể bạn quan tâm
Giá Trị Sản Xuất Thủy Sản Tháng 1 Bằng 108,8% So Với Cùng Kỳ 2014 Hiện các hộ nuôi đang tập trung tận thu các sản phẩm thủy sản, chuẩn bị vật tư thiết bị cải tạo ao đầm phục vụ cho vụ nuôi xuân hè. Các trại, cơ sở sản xuất giống, nuôi thương phẩm theo dõi diễn biến của thời tiết, chủ động phòng, chống rét cho đàn thủy sản bố mẹ, giống và con nuôi thương phẩm.
Thị Xã Tân Châu (An Giang) Quan Tâm Phát Triển Mô Hình Nuôi Lươn Thương Phẩm Lươn đồng (có tên khoa học là Monopterus albus) là loài thủy sản đang được nhiều hộ nông dân ở thị xã Tân Châu (An Giang) thả nuôi trong các bể xi măng và bể lót bạt nilong.Theo số liệu điều tra ở cuối năm 2014, toàn thị xã có 872 hộ nuôi lươn với tổng diện tích thả nuôi là 41.110 m2, trong đó tập trung nhiều ở xã Tân An với 377 hộ nuôi và chiếm 57,95 % diện tích nuôi lươn của toàn thị xã.
Thú Y Thủy Sản Thiếu Và Yếu Thủy sản trở thành ngành hàng quan trọng trong việc mang về ngoại tệ cho đất nước với gần 8 tỷ USD năm 2014, trong đó riêng con tôm nước lợ đã chiếm 50% tổng kim ngạch với 4 tỷ USD giá trị xuất khẩu, kế đến là cá tra, dù chưa hết khó khăn nhưng vẫn giữ vị trí số 2 với 1,8 tỷ USD. Hai mặt hàng này vẫn là thế mạnh của thủy sản Việt.
Cà Mau Thu Hoạch Cá Bổi Năm 2014, huyện Trần Văn Thời có gần 200 ha ao, đầm nuôi cá bổi, ước tổng sản lượng hơn 4.000 tấn. Mặc dù thời gian gần đây diện tích nuôi cá bổi thương phẩm ở huyện Trần Văn Thời ngày một tăng lên, nhưng do năm nay giá cá bổi giảm mạnh nên người dân có lãi rất thấp.
Bà Rịa Vũng Tàu Đánh Bắt Ghẹ, Ốc Hương Bằng Rập Đang Ăn Nên Làm Ra Theo ngư dân Nguyễn Văn Út, ở phường Thắng Tam (TP. Vũng Tàu), nghề rập ghẹ, ốc đã có ở đất Vũng Tàu từ những năm 90 của thế kỷ trước, là nghề truyền thống của những ngư dân gốc Bình Định, Quảng Ngãi di cư vào Nam. Ở BR-VT, ngư dân hành nghề rập ghẹ, ốc tập trung chủ yếu ở khu vực Xóm Lưới (TP. Vũng Tàu), thị rấn Phước Hải (huyện Đất Đỏ), Trước đây chỉ có vài chục chiếc, nay đã phát triển mạnh với hàng trăm chiếc tàu, ghe đánh bắt ghẹ, ốc bằng rập.