Chè Ô Long Với Biện Pháp Thâm Canh Cân Đối

Nhân rộng các biện pháp thâm canh cân đối lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, nước tưới phun sương… theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, nhiều vùng chè Ô long trong tỉnh đã giảm đáng kể nguồn vốn đầu tư và tăng rõ rệt nguồn lợi nhuận.
Thương hiệu chè Ô long an toàn
Khảo sát của Ban Quản lý Khu Công nghệ sinh học và Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Đà Lạt cho biết: Chè chất lượng cao Đài Loan gồm các giống Ô long, Kim tuyên, Ngọc thúy, Tứ quý, Thanh tâm… bắt đầu “di thực” về vùng đất Bảo Lâm trồng rải rác từ những năm 90 của thế kỷ trước, sau đó “xâm canh” trên diện rộng đến các vùng đất Bảo Lộc, Di Linh, Đà Lạt, Lâm Hà.
Với khí hậu đặc thù của vùng cao nguyên Lâm Đồng, những giống chè Đài Loan này (thường được gọi chung là chè Ô long) đã nhanh chóng chứng tỏ khả năng thích nghi và phát triển thành các vùng nguyên liệu chuyên canh với sản lượng và chất lượng ngày càng nâng cao, đến nay tổng diện tích ước gần 2.215ha. Đồng hành với nhà nông, những doanh nghiệp sản xuất, chế biến chè Ô long an toàn ở Lâm Đồng cũng đã lần lượt “ra mắt” và theo thời gian tích cực cạnh tranh đã định hình uy tín và giá trị thương hiệu của mình.
Nổi bật từ năm 2005 đến nay, thị trường trong và ngoài nước đã biết nhiều đến những nhãn hiệu chè Ô long an toàn đạt các tiêu chuẩn của Công ty TNHH Vina - Suzuki, Di Linh (đạt Iso ABS Mỹ và Organic EU với diện tích 42ha) hay 40ha đạt tiêu chuẩn VietGAP của Công ty cổ phần Chè Minh Rồng, Bảo Lâm và 50ha đạt GlobalGap của Công ty TNHH Phương Nam, Bảo Lộc…
Chè Ô long thâm canh cân đối
Ở Đà Lạt 10 năm trở lại đây, chè Ô long phát triển tại xã Trạm Hành và xã Xuân Trường, tổng cộng diện tích ước khoảng 490ha. Mặc dù nông dân ở đây sản xuất chè Ô long theo hợp đồng tiêu thụ của các doanh nghiệp Đài Loan chế biến tại chỗ, nhưng thực tế liên kết vẫn chưa thực sự ổn định về giá cả vì chất lượng sản phẩm hàng năm không đồng đều.
Ban Quản lý Khu Công nghệ sinh học và Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Đà Lạt đã tiến hành điều tra, phỏng vấn các biện pháp thâm canh của 100 hộ nông dân sản xuất chè Ô long, hộ sản xuất ít nhất là 0,3ha, nhiều nhất là 2ha; đồng thời cũng đã lấy mẫu đất, mẫu nước, mẫu chè thu hoạch… ở đây để đưa đi phân tích. Kết quả cho thấy nông dân vẫn chủ yếu sản xuất theo kinh nghiệm riêng của từng nhóm hộ gia đình, nên năng suất và chất lượng chè Ô long cứ “năm được, năm mất”, trong đó những thời điểm thu hoạch vào mùa mưa thường hay bị bên thu mua ép giá.
Để góp phần khắc phục tình trạng này, trong 2 năm vừa qua, Ban Quản lý Khu Công nghệ sinh học và Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Đà Lạt đã xây dựng và chuyển giao 6 mô hình điểm về áp dụng các biện pháp thâm canh cân đối cho cây chè ô long, đạt tiêu chuẩn VietGAP. Mỗi hộ gia đình được chọn triển khai 1 mô hình với 0,5ha chè ô long từ 4 - 7 năm tuổi, tọa lạc ở những vị trí thuận lợi để đối chứng, thâm canh trình diễn cho nông dân quanh vùng tham quan, học hỏi.
Đến nay, quy trình đã hoàn thiện với việc cân đối lượng phân bón hữu cơ và vô cơ theo từng giai đoạn thích hợp. Cụ thể, trên mỗi hécta chè Ô long, hàng năm, cần bón phân bò sữa đã ủ hoai mục vào đầu mùa mưa với 60m³, hoặc bón kết hợp với 100kg phân Magiê sulfate và 20kg phân kẽm sulfate; bơm phun 2 - 3 lít chế phẩm vi sinh EMZ - USA để cải tạo đất vào tháng 4 và tháng 8. Với phân vô cơ, trung bình mỗi lứa chè ô long khoảng 50 ngày, được bón cùng lúc với các khối lượng: Urê (760kg), DAP (190kg) và Kali (160kg)...
So sánh với cách sản xuất thông thường thì các biện pháp thâm canh cân đối ở 2 xã Xuân Trường và Trạm Hành, Đà Lạt đã tăng thêm năng suất chè Ô long an toàn trên mỗi hécta từ 6 - 13%, và lợi nhuận tăng theo tỷ lệ thuận từ gần 65 triệu đồng đến hơn 87 triệu đồng.
Ban Quản lý Khu Công nghệ sinh học và Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Đà Lạt đã tổ chức nhiều buổi tập huấn, hội thảo đầu bờ, chuyển giao toàn bộ quy trình nói trên cho khoảng 140 nông hộ trên địa bàn.
Có thể bạn quan tâm

Yêu cầu của mô hình là khu vực chăn nuôi phải xa khu dân cư, xa nguồn nước, cách nhà tối thiểu 20m, nông dân tham gia phải thực hiện đúng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, tuân thủ quy trình tiêm phòng các loại bệnh theo hướng dẫn của thú y, con giống phải có nguồn gốc rõ ràng, chất lượng tốt.

Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 7 tháng đầu năm 2014, sản lượng khai thác thủy sản ước đạt 1.644 nghìn tấn, tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ước khai thác biển đạt 1.542 nghìn tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ.

Nhiều năm qua, người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh đã biết đến vị ngọt đặc trưng của trái quýt đường tại vùng đất Hậu Giang, mà điển hình là thương hiệu quýt đường Long Trị. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do một vài nguyên nhân khách quan và việc thay đổi tập quán canh tác nên vô tình người dân đang đánh mất dần vị ngọt vốn có của quýt đường.

Theo Chi cục NTTS tỉnh, nhờ tập trung công tác chỉ đạo mùa vụ nuôi các đối tượng thủy sản hợp lý, qua hơn 6 tháng đầu năm đã cho thấy kết quả đạt được rất khả quan. Hầu hết các đối tượng nuôi nước ngọt, nước mặn và hải đặc sản đều sinh trưởng và phát triển tốt, năng suất thu hoạch cao, trong đó nổi bật là nuôi tôm thương phẩm và sản xuất tôm giống.

Diện tích cây mắc ca trồng mới từ đầu năm 2014 đến nay chỉ là một con số quá khiêm tốn trong tổng diện tích cây lâu năm trồng mới của tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, theo nhận định của lãnh đạo ngành nông nghiệp tỉnh, trong thời gian tới, diện tích mắc ca của Lâm Đồng có khả năng tăng mạnh.