Chế Độ Sử Dụng Lợn Đực Giống

1. Tuổi sử dụng:
Việc sử dụng lợn đực giống phụ thuộc vào tuổi thành thục về tính.
Tuổi thành thục về tính phụ thuộc vào giống, điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, khí hậu…
Các giống lợn nội nước ta có sự thành thục về tính sớm hơn so với các giống lợn ngoại rất nhiều nhưng chúng ta không thể sử dụng phối giống quá sớm vì nó sẽ ảnh hưởng đến phẩm chất tinh dịch, chất lượng đàn con và thời gian sử dụng đực giống…
Tuổi quy định sử dụng đực nội là 7-8 tháng tuổi với trọng lượng từ 25-30 kg trở lên (đối với Móng Cái, Ỉ) còn đối với các giống lợn khác (như lợn Trắng Phú Khánh, lợn Ba Xuyên, Thuộc Nhiêu) thì phải lớn hơn 60-70kg). Đối với lợn đực ngoại do tuổi thành thục về tính muộn nên tuổi sử dụng bắt đầu từ 9-10 tháng tuổi khi trọng lượng đạt từ 90kg trở lên.
2. Tỷ lệ đực/cái, thời gian và chế độ sử dụng:
+ Tỷ lệ đực/cái: Nếu phối giống trực tiếp thì 1 đực phụ trách 25-30 cái. Nếu thụ tinh nhân tạo thì 1 đực phụ trách 250-300 cái.
+ Chế độ sử dụng: Cần căn cứ vào tình tình phát dục, sức khoẻ và phẩm chất tinh dịch của lợn đực giống mà ta quy định số lần giao phối trong 1 tuần cho lợn đực như sau:
Lợn 8-12 tháng tuổi có thể cho nhảy 2-3 lần/tuần là vừa, 4-5 lần là nặng.
Lợn 12-24 tháng tuổi phối 3-4 lần/tuần là vừa, 6-7 lần là nặng.
Lợn >2 năm tuổi, 1 tuần phối 5-6 lần là vừa, 7 lần là nặng.
Nếu TTNT thì 1 tuần chỉ nên lấy tinh 2-3 lần là vừa.
Nếu sử dụng lợn phối trực tiếp phải có nơi bằng phẳng, không gồ ghề, yên tĩnh, không người qua lại. Khi cho lợn giao phối hoặc lấy tinh xong phải cho lợn nghỉ ngơi 30-60 phút mới cho ăn. Khi ăn no không cho giao phối, nên chỉ lấy tinh hoặc cho giao phối luc trời mát (vào sáng sớm).
Thời gian sử dụng lợn đực nội là khoảng 3 năm, đực ngoại 3-4 năm. Không nên sử dụng lợn đực giống quá lâu vì nó sẽ làm giảm khả năng cải tạo đời sau và dễ gây nên hiện tượng đồng huyết gần…
Có thể bạn quan tâm

I. Nguyên nhân gây bệnh: Bệnh sưng phù đầu do trực khuẩn E.coli gây ra trên heo con sau khi cai sữa 4 - 10 ngày. Giai đoạn này heo con được tách khỏ i mẹ nên thường có thay đổi về thức ăn, dinh dưỡng, chuồng trại nuôi nhốt và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng.

1. Đối với lợn nái: Chủ hộ phải phát hiện được thời điểm lợn nái động dục và những triệu chứng lâm sàng trong quá trình động dục để người dẫn tinh viên kịp thời xử lý các tình trạng xấu ảnh hưởng đến tỉ lệ thụ thai .

1. Ngộ độc sắt do chất lượng sắt: Chất lượng sắt kém: một số sản phẩm sắt không đạt yêu cầu kỹ thuật nên các phân tử sắt không được gắn kết vào cấu trúc của Dextran, phân tử sắt này ở dạng tự do rất dễ bị oxy hóa trong quá trình bảo quản sẽ gây ra những tác dụng phụ khi sử dụng: chất sắt tự lắng tụ tại chỗ, gây xót, mô bị hoại tử, viêm sưng tạo abxe tại chỗ, heo suy yếu và tiêu chảy sau khi tiêm sắt vài ngày,…

Biện pháp kích thích heo động dục là phương pháp được ứng dụng rộng rãi để nâng cao năng suất sinh sản ở gia súc, giảm số lượng heo cái chậm sinh, rút ngắn khoảng cách giữa 2 lứa đẻ; Góp phần điều khiển hoạt động sinh sản của đàn gia súc theo kế hoạch của trang trại chăn nuôi, nâng cao hiệu quả kinh tế, lợi nhuận trong chăn nuôi heo nái sinh sản.

Bệnh do vi khuẩn Mycoplasma gây nên, chúng có thể sống trong không khí cho nên khả năng gây bệnh của nó là rất lớn