Chăn Nuôi Nhỏ Vẫn Tồn Tại

Cần có mô hình liên kết để hỗ trợ nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật, giống, thức ăn, thuốc thú y cũng như có đầu ra bền vững.
Đến năm 2020, bên cạnh chăn nuôi trang trại được đẩy mạnh phát triển thì chăn nuôi quy mô nhỏ vẫn tồn tại và chiếm ưu thế. Theo đó, nhiều giải pháp được đặt ra để nâng cao sức cạnh tranh như hình thành liên kết; chính sách khuyến khích phát triển trong đó có vốn, đào tạo kỹ thuật.
Đó là thông tin tại hội thảo “Phân tích ảnh hưởng cấu trúc ngành chăn nuôi đến lợi ích của người chăn nuôi nhỏ ở Việt Nam” do Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn vừa tổ chức tại TP HCM.
Thống kê từ ngành chăn nuôi cho thấy số hộ chăn nuôi quy mô nhỏ vẫn còn chiếm tỉ lệ lớn, khoảng 86,4% số hộ nuôi từ 1-9 con heo/hộ, khoảng 89,6% số hộ nuôi từ 1-49 con gia cầm/hộ. Bên cạnh đó, còn có chăn nuôi quy mô nhỏ cận trang trại với số hộ chăn nuôi quy mô trên 50 con gia cầm/hộ, chiếm 10,4% và trên 9 con heo/hộ, chiếm 13,6%.
Ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, cho biết đến năm 2020, chăn nuôi quy mô nhỏ vẫn là khu vực cung cấp 45%-50% thực phẩm tươi sống (thịt, trứng, sữa) cho thị trường trong nước. Còn chăn nuôi trang trại được đẩy mạnh phát triển nhưng bị hạn chế bởi đầu tư nguồn vốn lớn, quay vòng vốn chậm, khó vay ngân hàng, nhiều tiêu chuẩn còn thiếu (như tiêu chuẩn nước thải chuồng nuôi).
Chăn nuôi quy mô nhỏ vẫn tồn tại vì vốn đầu tư ít, sử dụng lao động tại chỗ rẻ hơn, tận dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp trong nông thôn.
Nhưng chăn nuôi quy mô nhỏ sẽ không nhiều ở vùng đồng bằng nơi đông dân mà tập trung nhiều ở nông hộ trung du, miền núi (vùng thưa dân). Dự kiến đến năm 2020, vẫn còn trên 2-2,5 triệu hộ nông dân chăn nuôi heo quy mô nhỏ và 5 triệu hộ nông dân chăn nuôi gia cầm quy mô nhỏ.
Các doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp cho rằng người chăn nuôi nhỏ lẻ chịu nhiều thiệt thòi, yêu cầu thu mua nguyên liệu là phải có nguồn gốc rõ ràng, với quy mô nuôi nhỏ lẻ khiến doanh nghiệp gặp khó khăn khi thu mua tại từng nông hộ.
Nông dân chăn nuôi với giá thành cao nhưng khi bán ra theo giá thị trường nên thường xuyên bị lỗ. Chăn nuôi nhỏ gặp khó khăn trong áp dụng công nghệ mới, chất lượng sản phẩm chăn nuôi thấp, không có vốn, kiến thức hạn chế, không chủ động được thị trường tiêu thụ. Nhưng bù lại, họ có lợi thế là số lượng lao động rất lớn, rẻ và có lợi thế về đất đai để chăn nuôi không phải thuê mướn.
TS Nguyễn Thanh Sơn, Viện trưởng Viện Chăn nuôi, cho biết chăn nuôi nhỏ lẻ chiếm 65%-70% về đầu con và 55%-60% về sản phẩm. Năng suất chăn nuôi, sinh sản thấp. Quản lý dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm còn nhiều tổn tại và bất cập. Giá thức ăn chăn nuôi cao, chất lượng con giống thấp, giá thành chăn nuôi cao.
Cũng theo ông Sơn, chăn nuôi trang trại trước đây có tốc độ phát triển nhanh nhưng thời gian gần đây đã tăng trưởng chậm do thiếu đất và thị trường bão hòa trong khi nông hộ vẫn phát triển về số lượng. Vì vậy đã đến lúc đánh giá lại vai trò chăn nuôi nông hộ nhưng có kiểm soát, theo hướng hàng hóa, chất lượng và có liên kết.
Các chuyên gia cho rằng cần nhìn nhận và đánh giá một cách kỹ càng các hộ sản xuất nhỏ có chăn nuôi là nguồn thu nhập chính với các hộ chăn nuôi theo hướng cải thiện để có các chính sách phát triển phù hợp. Cần tính đến giải pháp giảm bớt hộ chăn nuôi nhỏ chuyển sang các ngành nghề khác nếu khôngđáp ứng yêu cầu về môi trường, dịch bệnh.
Xây dựng quy hoạch vùng được phép chăn nuôi tại địa phương để người chăn nuôi an tâm và đầu tư vào chăn nuôi. Tổ chức liên kết các hộ nhỏ thành trang trại, tổ nhóm sản xuất hay HTX kiểu mới để nối kết với các nhà máy thức ăn, nguồn cung ứng giống với thị trường tiêu thụ.
Liên kết là giải pháp giải quyết nhiều vấn đề giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các hộ chăn nuôi nhỏ, nâng cao chất lượng thực phẩm, kiểm soát dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm trong chăn nuôi và vận chuyển. Liên kết sẽ giúp hạ giá thành sản xuất, trực tiếp với nguồn cung giống, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y.
Đây cũng là cơ hội áp dụng khoa học kỹ thuật mới, truy xuất nguồn gốc. Chăn nuôi nhỏ cần vai trò quản lý của nhà nước như chính sách vốn tín dụng, khuyến khích đổi mới công nghệ, giống, thức ăn, thú y, chế biến giết mổ.
Có thể bạn quan tâm

Các nhà khoa học thuộc viện Thuỷ điện và năng lượng tái tạo đã nghiên cứu chế tạo thành công thiết bị tạo nước ngọt từ nước biển bằng năng lượng mặt trời.

Bị cấm ở Nga, khó khăn tại Mỹ, các DN XK thủy sản đang rơi vào cảnh “tiến thoái lưỡng nan” khi “vấp” tại hầu hết thị trường XK lớn.

Theo Chi cục Nuôi trồng thủy sản tỉnh Khánh Hòa, toàn tỉnh có khoảng 1.100 ha nuôi tôm thẻ chân trắng, chiếm 50% diện tích NTTS, trong đó vùng nuôi tôm thẻ nhiều nhất là các huyện Ninh Hòa, Vạn Ninh và TP Cam Ranh.

Với đà thắng lợi của vụ nuôi tôm năm 2013, đặc biệt nuôi tôm thẻ chân trắng "quay" được 2 vòng (90 ngày/vòng/vụ) lợi nhuận tăng gấp đôi tôm sú. Năm nay, tại Sóc Trăng, ngay từ đầu vụ là cuộc đua mở rộng diện tích nuôi và thả giống sớm. Dọc theo tuyến đường Nam Sông Hậu đến huyện Trần Đề những ngày đầu tháng 3/2014 không khí tấp nập chuẩn bị ao nuôi.

Năm 2013, trong điều kiện có nhiều khó khăn nhưng nghề nuôi trồng thủy sản (NTTS) của tỉnh Nam Định vẫn tiếp tục phát triển cả về quy mô và sản lượng thủy sản. Có được kết quả đó là do công tác phổ biến, ứng dụng khoa học kỹ thuật đã được các ngành chức năng, các địa phương đặc biệt coi trọng.