Cây khoai mì Ô Tà Bang

Đó là thế mạnh sản xuất nông nghiệp khu vực tiếp giáp Thới Sơn, An Phú, An Cư, Văn Giáo (Tịnh Biên - An Giang)… do đồng bào Khmer và người Kinh trồng trên đất đồi dốc, xen vườn cây ăn trái và cây rừng. Khoai mì ở đây không chỉ lấp vụ chờ mưa, mà còn giúp nông dân cải thiện kinh tế gia đình và ứng phó trong điều kiện biến đổi thời tiết.
Cây trồng thích nghi thổ nhưỡng
Bước sang rằm tháng bảy âm lịch, khoai mì Ô Tà Bang được khoảng 60 ngày tuổi, đây là thời điểm cần chăm sóc và bón phân để cây tiếp tục phát triển và đạt năng suất như ý. Ông Chau Kunh (ấp Đây Cà Hom, xã Văn Giáo) cho hay, thời vụ trễ hơn cùng kỳ năm ngoái, nhưng cây lên cỡ đầu gối thì không còn sợ chết nữa, dù cho nắng hạn nhiều ngày. “Tui biết trồng khoai mì hơn mười năm nay. Đây là giống mới của Nhà nước cấp phát, được cán bộ kỹ thuật dạy cách thức trồng, rồi giữ giống luôn tới giờ” – ông Chau Kunh nói.
Đối với người dân xứ núi, cây khoai mì không lạ lẫm, mà đã trở nên quen thuộc. Bởi, loài cây này thích nghi với đất pha cát và chống chịu được hạn, nhất là đất đồi dốc và đất ven triền núi. Đó là loài khoai mì ngắn hạn, chu kỳ sinh trưởng từ 4,5 - 6 tháng, nhiều người còn gọi là khoai mì kè hay khoai mì nấu ăn thường thấy. Thế nhưng, đối với khoai mì giống mới thì đặc tính sinh trưởng dài ngày (khoảng 8 tháng), không nấu ăn mà thường dùng để sơ chế. Theo ông Chau Kunh, bà con quen gọi là khoai mì lấy tinh bột hoặc khoai mì công nghiệp, chỉ máy móc mới chế biến được.
Biến đổi theo thời gian, khoai mì kè Ô Tà Bang có giá “teo tóp” dần, nhường chỗ cho khoai mì công nghiệp. Vài năm trở lại đây, loài giống mới luôn mở rộng, một phần nhờ có doanh nghiệp thu mua và sơ chế tại chỗ, một phần do biến đổi thời tiết và thường gặp khó khăn về khâu nước tưới. Ông Chau Thanh (khu vực chùa Rô, xã An Cư) than vãn: “Nắng hạn, trồng đậu cũng chịu thua, hổng có nước tưới bị thất bát. Đất đồi dốc chỉ có khoai mì, vì cây này chịu hạn tốt”. Do vậy, cây bắp, củ sắn, họ đậu… chỉ rải rác, còn cây khoai mì công nghiệp chiếm ưu thế trong khu vực.
Kích thích nhờ thu mua
Mấy năm nay, khoai mì Ô Tà Bang khoảng 130.000đ/tạ (75kg), giá còn tùy thuộc từng thời điểm và củ cho tinh bột nhiều hay ít. Hiện tại, giá khoai mì cỡ 100.000đ/tạ. Ông Nguyễn Văn Thuận (ấp Núi Két, xã Thới Sơn) lý giải: “Dân nhà nông gọi đó là mì non, giá mới vậy, chứ để đúng tuổi thì giá phải cao hơn. Đó là những hộ gặp khó khăn, cần tiền xoay sở gia đình, đôi khi họ tính trồng cây khác mới dỡ sớm”. Thu hoạch sớm, năng suất sẽ thấp và giá cũng thấp. Tuy nhiên, hạch toán chi phí sản xuất, người trồng khoai mì công nghiệp lãi không dưới 20% mỗi tạ.
Trên đoạn Hương lộ 17A (ấp Bà Đen, xã An Cư) và khu vực Đây Cà Hom – Vĩnh Thượng, có nhiều điểm thu mua và sơ chế khoai mì. Theo người dân sở tại, đây chính là động lực thúc đẩy cây khoai mì Ô Tà Bang và cả miền núi Tịnh Biên phát triển. Ông Chau Tít (khu vực chùa núi Nenl Non, xã Văn Giáo) cho hay, nếu chăm sóc tốt thì năng suất 40 tạ/công, trừ chi phí 50% cũng còn lời 50%. “Đất gò cao hổng có nước tưới, được như vậy là mừng lắm. Bây giờ, trồng cây gì bán cũng gặp khó khăn, chi bằng trồng khoai mì, bán tại chỗ” – ông Chau Tít nhẩm tính.
Nhiều nông dân Ô Tà Bang cho biết, khoai mì là một trong những cây trồng thuộc thế mạnh vùng đất này, với điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi nên nhiều người bỏ cây trồng khác để trồng khoai mì, ai cũng cảm thấy yên tâm hơn, mùa màng đảm bảo trọn vẹn và đất đai không bị bỏ trống. Đồng bào Khmer và người Kinh xứ núi xem đây như là giải pháp ứng phó với biến đổi thời tiết, vừa cải thiện thu nhập kinh tế gia đình, vừa khai thác triệt để đất đồi dốc.
“Hàng năm, diện tích trồng khoai mì công nghiệp ở Tịnh Biên khoảng 700 héc-ta, là vùng nguyên liệu lớn nhất miền núi của An Giang. Trong đó, khu vực Ô Tà Bang (nơi tiếp giáp Văn Giáo, An Cư, An Phú và Thới Sơn) chiếm trên 50% diện tích toàn huyện”.
Có thể bạn quan tâm

Theo Thông tư, việc thực hiện điều tra, khảo sát và tổng hợp số liệu điều tra, khảo sát để xác định chi phí sản xuất, tính giá thành cá tra nguyên liệu thực tế phải dựa trên những nguyên tắc: Trình độ và điều kiện sản xuất; Tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất thực tế của các cơ sở nuôi cá tra;

Theo thống kê của Cục thống kê tỉnh Sóc Trăng, giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản 2014 (theo gia hiện hành) của tỉnh là 42.261 tỷ đồng, tăng 9,7% so với năm 2013. Trong đó riêng trong lĩnh vực thủy sản chiếm 35,37% giá trị toàn ngành với tổng diện tích thả nuôi là 68.400 ha, đạt 100,6% kế hoạch trong đó tôm nước lợ là 53.096 ha.

Trong không khí rộn ràng đón mừng xuân mới Ất Mùi, với nhiều câu chuyện vui buồn trong sản xuất - đời sống năm qua, bà con nông dân sẽ không quên bàn luận nhiều vấn đề về nuôi trồng thủy sản và mơ ước có được những vụ tôm nuôi thành công, đạt hiệu quả kinh tế cao trong năm 2015.

Theo ông Tiến, trong năm 2014, xã đã lập được 2 tổ, đội đoàn kết KTTS trên biển với hơn 10 tàu cá tham gia. Các tổ, đội này hoạt động theo quy chế thống nhất được cấp trên ban hành. Đáng mừng là ngư dân tham gia các tổ, đội đoàn kết KTTS đã phối hợp với nhau khá hiệu quả trong khai thác và tiêu thụ sản phẩm, cũng như hỗ trợ nhau trong phòng chống thiên tai, rủi ro tai nạn trên biển.

Năm 2014, diện tích tôm nuôi đạt khoảng 267.642 ha, trong đó diện tích nuôi tôm công nghiệp đạt trên 8.200 ha, quảng canh cải tiến 61.000 ha, sản lượng tôm nuôi ước đạt trên 155.000 tấn, tăng 11,57% so với cuối năm 2013. Tuy nhiên, trong sản xuất tiềm ẩn nhiều rủi ro, thiếu bền vững. Ðể chủ động trong sản xuất, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Cà Mau Châu Công Bằng cho biết, năm 2015 diện tích nuôi tôm trong tỉnh tăng trên 270.000 ha.